Lời bình:
Trong các sự mất, có lẽ chỉ mất người yêu là dễ làm thơ nhất, chứ mất ví, nhất là mất chó, khó thành thơ lắm. Họa chăng có làm thơ trào phúng, làm thơ trữ tình than vãn dễ thành anh tiếc của, có khi lại bị coi là anh bủn xỉn. Vậy mà Trần Đăng Khoa năm mười một tuổi đã viết được, mà viết hay, một bài thơ mất chó: Sao không về Vàng ơi?
Vàng viết hoa hẳn hoi vì là tên con chó vàng nhà em. Thì ra cái ngây thơ thuần khiết của tuổi mười một đã giữ cho tình cảm bài thơ hoàn toàn trong cõi tinh thần, không gợn một chút tiếc của nào. Bài thơ mang tâm lý thiếu nhi mà lại sâu sắc việc đời, người lớn khó viết được.
Bài thơ nói chuyện mất chó nhưng đoạn đầu, đoạn dài nhất trong ba đoạn của bài, lại nói chuyện lúc chó đang còn. Nói cái mất, cái không có dễ trừu tượng, nên phải lấy cái có để nói cái không, vẽ mây nẩy trăng vốn là thủ pháp thường gặp trong văn chương, ở đây em Khoa dùng rất đắc địa là chó, sinh động nhất, tình cảm nhất là lúc nó đón mừng chủ. Đó là hoàn cảnh điển hình để bộc lộ "tính cách điển hình'' của con Vàng.
Em Khoa (khi tôi viết lời bình này thì Trần Đăng Khoa đã ngoài ba mươi tuổi, tôi xin được gọi thế cho hợp với tâm lý bài thơ) đã chọn khung cảnh Tao đi học về như để diễn tả tình cảm quấn quýt của con chó với người chủ nhỏ. Chó là con vật có tình cảm và tình cảm ấy được bộc lộ, nó không yêu ghét để bụng như con người, nên tả tình cảm của nó là phải tả qua cách bộc lộ, không nên tả bằng cảm nhận của mình: ôi con chó nó mừng tôi lắm.
Tả thế người đọc không thấy chó, chỉ thấy một nhận xét. Làm thơ kị nhất là đưa nhận xét kiểu phê công văn như thế. Chúng ta hãy xem em Khoa quan sát và kể lại những cử chỉ của con chó lúc đón chủ. Trước hết, khi vừa thấy bóng chủ:
Là mày chạy xồ ra
Sự mau ngắn vồ vập ấy con loài chó mới có, đó là chỗ tuyệt vời của chúng về mặt tình cảm.
Đầu tiên mày rối rít
Cái đuôi mừng ngoáy tít.
Rồi mày lắc cái đầu
Khịt khịt mũi, rung râu
Rồi mày rún chân sau
Chân trước chồm, mày bắt
Hình ảnh sinh động như một đoạn phim. Ở đây có sự tinh vi trong bút pháp của nhà thơ nhỏ tuổi. Tả tình cảm con người, thường tả bằng nét mặt nụ cười, nhưng với chó, cái mặt ít gợi cảm tình, còn tả chó cười thì lại thành chó thui mất.
Em Khoa đã tinh ý nhận ra cái đuôi là chỗ biểu hiện tình cảm cao nhất ở loài chó. Em tả đuôi trước rồi mới ngược lên tả đầu, tả tứ chi. Và ở mỗi bộ phận cơ thể ấy em chỉ nói tới năng lực biểu hiện sự mừng rỡ: cái đuôi thì ngoáy tít, cái đầu thì lắc lắc, mũi khịt khịt, chân sau rún, chân trước chồm. Chúng ta đọc thấy sinh động vì đoạn thơ chứa nhiều động tác, Khoa đã quan sát kỹ không bỏ sót một động tác nào.
Nhưng có một chi tiết Khoa đã không tả đúng, em đã bịa ra, khi em nói con chó nó bắt tay em:
Bắt tay tao rất chặt
Thế là mày tất bật
Đưa vội tao vào nhà
Thật ra thì em nắm chân trước của nó. Và nó theo em vào nhà. Nếu quan sát bằng mắt thì chỉ thấy thế thôi. Nhưng do cái tình của con chó mà tác giả tưởng tượng ra, nhân cách hóa con chó từ lúc nào không biết, nên mới tả nó bắt tay, mà bắt tay rất chặt (chó đâu có bàn tay), lại còn đưa chủ vào nhà như ta đón khách.
Đây cũng là một đặc điểm của tư duy con trẻ: quan sát và tưởng tượng lẫn vào nhau. Người đọc không mấy ai thấy các chi tiết ấy là vô lý, người ta chấp nhận dễ dàng vì nó đúng với tâm trạng. Đây là một thí dụ về cái phi lý được chấp nhận và hơn nữa cần có trong thơ.
Đoạn hai mới là tình cảnh mất chó:
Hôm nay tao bỗng thấy
Cái cổng rộng thế này
Vì không thấy bóng mày
Nằm chờ tao trước cửa
Không nghe tiếng mày sủa
Như những buổi trưa nào
Một cảm giác trống trải cái cổng rộng ra vì không còn hình và không còn tiếng con chó. Nhất là lúc đi học về, em bé Khoa thảng thốt:
Không thấy mày đón tao
Cái đuôi vàng ngoáy tít
Cái mũi đen khịt khịt
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao
Đây là một quy luật tâm lý mà em Khoa khi ấy đã hiểu được: trước đây con chó đã tạo cho chú bé lúc đi học về, một niềm vui lớn bao nhiêu thì giờ đây vắng con chó, chú bé lại buồn bấy nhiêu. Các chi tiết của kỷ niệm càng sinh động, nỗi nhớ càng sâu, Khoa đã dụng ý nhắc lại các chi tiết ở đoạn một để tả nỗi nhớ của chú bé.
Mày không bắt tay tao, tay tao buồn làm sao. Đây là câu thơ ngây thơ nhất và cũng tế nhị nhất của bài thơ. Nó gợi được hình ảnh chú bé nhìn xuống tay mình mà nhớ con chó, nhớ kỷ niệm cũ.
Còn tế nhị là ở chỗ: nỗi nhớ con chó dù thế nào cũng không thể như nỗi nhớ một con người. Nỗi buồn mất chó chỉ sinh ra từ hai lẽ: lẽ thứ nhất là mất của (chó là một giá trị kinh tế hoặc thực phẩm gì đó), lẽ thứ hai thuộc về phạm vi tình cảm. Nặng về nỗi buồn mất của sẽ ra người keo kiệt, mà quá nhấn mạnh đến tổn thất tình cảm cũng không ổn. Chó vẫn là chó. Trong bài thơ này, Trần Đăng Khoa chỉ nói tới tổn thất tình cảm nhưng em giới hạn mức độ:
Mày không bắt tay tao
Tay tao buồn làm sao
Cái tay đại diện cho con người để bạn bè với con chó vừa là ngang cấp, vắng con chó, cái tay nó buồn. Tâm lý rất trẻ thơ mà lại hóa ra tinh tế. Em Khoa đã tả đúng nỗi lòng chú bé nên có được sự tinh tế ấy không phải do dụng ý của bút pháp. Bài thơ đến đây có thể kết thúc. Tác giả viết đoạn thứ ba để phát triển sang một chủ đề khác. Nói lý do mất chó, Khoa đã biến bài thơ mất chó thành bài thơ hạ không lực Hoa Kỳ, một yêu cầu thời sự của văn chương những năm sáu mươi. Bom Mỹ rơi chỉ có chó nó sợ, nó chạy, không thấy tác động gì khác tới làng xóm.
Hai câu kết: “Tao nhớ mày lắm đó/ Vàng ơi là vàng ơi!” là đỉnh cao của tình cảm bài thơ, tưởng như thấy được chú bé đang mếu máo gọi chó, vác gậy chạy tìm khắp xóm.
Lời bình của Vũ Quần Phương
Nguồn: Văn nghệ Trẻ