


Khi đó tôi đang tại ngũ tại thị xã Lào Cai bị bỏ trống, làm ở bộ phận tham mưu tiểu đoàn. Vì thế mà chúng tôi có thời gian để tăng gia cải thiện thêm.
Chả biết có phải thấy chúng tôi rảnh rỗi mà một hôm anh Nguyễn Ngọc Mùi-thượng uý, phụ trách công tác đoàn và ở cùng với chúng tôi-đi chơi Sapa về, đem theo một con chó đen nhánh, vẫn chưa mở mắt. Chẳng rõ anh nhặt được nó trong hoàn cảnh nào.
Qua lời anh thì tôi đoán có lẽ anh ngẫu hứng lấy của ai đó, phần nhiều là của một phụ nữ mà anh tán tỉnh, chắc do đùa cợt rồi không nỡ ném đi nên mang về dưa “cái của tội nợ” đó cho tôi. Tôi miễn cưỡng nhận nhưng trong lòng rất oán trách anh Mùi.
Không nuôi thì tội nghiệp nó, mà nuôi thì chắc gì nó đã sống. Nó vẫn chưa mở mắt và chỉ to hơn cổ chân một chút. Hằng ngày tôi cho nó ăn cơm, loại cơm nấu từ tấm Ấn Độ (nghe nói thế?) nên rất dính. Mặc dù hai mắt nhắm tịt nhưng miệng nó háu háu vục vào bát cơm.
Có lẽ do nó bị bỏ đói. Vốn không thích chó nhưng nhìn con vật bé xíu ăn một cách khổ sở, lòng tôi cng dịu lại. Lần nào cơm cũng dính chặt hai hàm nó vào nhau. Mỗi lần như vậy tôi phải lấy thìa cậy giúp nó khiến nó kêu úng oắng.
Tôi càng được thể giận anh Mùi. Anh làm khổ tôi mà cứ coi như không, thấy thế còn nhe răng cười. Nhưng rồi con chó cũng lớn dần. Chả may cho nó sớm bị ghẻ, dân gian gọi là lường. Lông nó trụi dần, trông rất bẩn mắt.
Ngày nào nó cũng dùng chân sau gãi bụng sồn sột, quay tròn như sắp phát cuồng và phô ra cái thân hình ghẻ lở, xấu xí rất khó nhìn. Tôi cảm thấy có mối ác cảm rất cay nghiệt với nó. Mỗi lần nó xuất hiện, tôi lại nổi cáu vô cớ.
Một lần tôi mang nó ra, chịt cổ, rồi dùng cả phao dầu thắp sáng dội thẳng lên người nó. Trong hành động của tôi có lẫn cả sự ác độc, kiểu cho mày chết đi! Con vật kêu như phải bỏng. Nó quay chong chóng, ngã lộn nhào mấy vòng vì xót.
Rồi nó cứ lăn lộn trên nền đất, kêu gào thảm thiết, nước mắt chảy ra. Nó nhìn tôi sợ hãi và oán trách, như vì tôi mà nó phải chết non. Đang bù đầu vì sổ sách, chứng kiến cảnh ấy, tự dưng tôi không thể chịu đựng nổi.
Tôi co chân đá nó một phát, y như đá trái bóng khiến nó bay ra phía ruộng rau. “Thôi thì mày biến đi cho khuất mắt tao, mày chết luôn tao càng thoát nợ, trông mày tởm quá thể”. Tôi bực mình quay vào, không thèm nhìn xem con chó quằn quại ra sao.
Nó chỉ là một con chó, việc quái gì mình phải khổ với nó. Không thấy động tĩnh gì, tôi nghĩ con chó đã chết hoặc bỏ đi. Thế nào cũng tốt. Nó sẽ không thể ám mình được nữa. Nào ngờ, chiều tối hôm ấy, khi đi rừng về, tôi thấy nó lại đã ở trong phòng làm việc của tôi.
Nó nằm im, người cuộn lại, lông vẫn bết vì dầu, toàn thân run lên từng chặp. Nó run vì xót, vì đói và còn vì sợ tôi. Nó không dám nhìn tôi, chỉ khẽ rên ư ử, có lẽ đang ra sức van xin tôi từ tâm cho nó được sống và tá túc qua ngày.
Tôi bỗng thấy động lòng, lót cho nó một cái áo rách. Vài hôm sau thì nó bắt đầu ăn uống bình thường. Và điều kỳ diệu là lông nó có dấu hiệu mọc lại. Nghĩa là phao dầu đã có tác dụng diệt hết đám cái ghẻ trên người nó.
Mấy tuần sau thì nó thành con chó có bộ lông óng mượt, đốm mũi và đốm trán nên trông như chó bốn mắt. Tôi gọi nó là con Jên, tên một nữ nhân vật hoàng tộc đài các nhưng hết thời trong cuốn tiểu thuyết lịch sử Cây đèn sắt của Bun-ga-ri mà tôi vừa đọc.
Ngày ngày Jên quanh quẩn bên tôi. Ngoài tôi ra, không ai gọi được nó, không ai có thể mời nó ăn bất cứ món gì. Ban đêm nó nằm ngay dưới chân giường của tôi, không bao giờ ngủ. Ban ngày khi tôi làm sổ sách thì nó ngủ khì, rồi khi dậy thì ra hiên ngồi canh và hóng hớt chuyện của lính.
Hôm nào thấy tôi sắp xếp tài liệu, thay quần áo, thì nó ra ngoài cửa đứng chờ sẵn ở trên thềm. Nó ưỡn ngực nhìn theo từng bước tôi đi theo triền dốc xuống đường. Nếu tôi rẽ phải, nghĩa là ra trung đoàn, nó bèn quay vào.
Ra trung đoàn thì chỉ có đi làm việc, nó biết như vậy và không bao giờ quấy quả. Nhưng hễ tôi rẽ trái, lập tức nó phóng theo. Rẽ trái thì hoặc xuống đơn vị, tức là đi chơi, hoặc vào rừng đi săn. Cả hai việc, với nó, đều có quyền bám theo ông chủ.
Chưa lần nào tôi đủ cứng rắn để bắt nó quay về. Trên đường đi nó cứ chạy luýnh quýnh, thỉnh thoảng lại nhìn tôi thích thú và lòng đầy biết ơn. Nhưng ngay cả khi ở đơn vị chỉ huy mời tôi ăn cỗ bàn, thịt cá ê hề thì nó cũng nằm ngay dưới chân, không bao giờ đòi hỏi bất cứ điều gì, không ai cho nó ăn nổi dù một miếng nhỏ, nếu tôi chưa phát tín hiệu đồng ý.
Những lúc trời tối đen, hai bên lối mòn chỉ có cây cối rậm rạp mà có nó luôn chạy phía trước để dẫn đường quả là rất yên lòng. Có lẽ vì quá khôn mà con Jên cứ còi cọc không lớn. Nuôi mãi nó cũng chỉ chừng 5-6 cân. Cả trung đoàn biết tiếng con Jên, nhất là những hành động khôn ngoan của nó.
Vậy mà một hôm tiểu đoàn trưởng tên là Đ. B. B, vừa sáng ra đã sang phòng tôi. Ông hỏi thăm con Jên và khi tôi khoe nó khôn như người thì ông ta cười ầm lên, đầy vẻ chế nhạo. Mãi rồi ông ta cũng nói ra mục đích chính của việc sang gặp tôi.
Ông bảo trưa nay trung đoàn trưởng xuống thăm, dẫn theo cả khách trên sư đoàn hay quân đoàn gì đó. Ông chưa biết lấy gì để tiếp đãi các thủ trưởng. Cả đơn vị chỉ còn mỗi một con trâu. Không thể chỉ vì bữa cơm tiếp khách mà thịt cả con trâu.
Mà các thủ trưởng thì lại chỉ khoái món “mộc tồn”. Vì thế ông muốn “vay” tôi con Jên để làm cỗ. Ông sẽ cân nó lên và sau này trả tôi số thịt lợn bằng đúng số cân hơi của con chó. Vừa nghe thế tôi đã giãy nảy, bảo rằng con chó khôn lắm, không thể thịt được, sau này nó chết thì tôi sẽ an táng.
Ông B. nghe vậy thì chửi tục: “Mẹ chú mày, con chó là cái đéo gì mà chú cứ làm to chuyện. Nó khôn đến đâu thì cũng là loài ăn cứt!”. Nói xong ông đứng dậy ra về, coi như không bàn cãi gì thêm nữa. Tôi cảm thấy lòng dạ rối bời. Ông Đ. B. B vẫn rất tốt với tôi, coi tôi như anh em.
Bản thân ông ấy không phải là người tham ăn. Ông ấy chỉ vì bí mà ép người khác thôi. Đúng là nhìn quanh thì chỉ còn con Jên của tôi có thể lên mâm. Thịt gà thì không thành cỗ, như lời ông B. nói. Tôi bèn bảo Phí Thắng, nhân viên chính trị mà tôi coi như chú em hay là đem con Jên trốn tạm đi đâu đó, chờ bình yên sẽ trở về.
Phí Thắng có vẻ ngần ngại. Cậu ta thật thà bảo: “Nếu làm vậy thì chỉ có bác là dám thôi, còn bọn em thì không. Bọn em không có cái uy như bác”. Tuy nói vậy nhưng thực lòng Thắng không muốn tôi làm căng, sẽ ảnh hưởng đến cả cậu ta.
Bởi vì nếu không cho lão tiểu đoàn trưởng toại nguyện, chẳng may vì thế mà lão bẽ mặt với cấp trên, có thể lão sẽ dùng quyền chỉ huy cắt bỏ những “đặc quyền đặc lợi” mà chúng tôi vẫn mặc nhiên được hưởng, sau đó gây khó khăn những chuyện khác, phần lớn là không thể lường được.
Nghĩ thế nên tôi bảo Thắng là tôi sẽ xuống đại đội, ở nhà cậu ta tùy ý định đoạt. Khi quyết định làm như vậy, tức là tôi đã quay lưng phản bội con Jên, giao nó cho tử thần. Tôi hèn hạ bán rẻ mạng sống của nó để đổi lấy sự yên thân nhưng lại làm như mình vô can.
Lần đầu tiên con Jên không chạy theo tôi.
Trưa hôm ấy, khi áng chừng mọi việc đã xong xuôi, tôi thất thểu từ đơn vị về nhà. Không thấy dấu hiệu gì chứng tỏ tiểu đoàn có khách. Tôi khấp khởi mừng định đi tìm con Jên nhưng không thấy nó đâu. Tôi hỏi Phí Thắng thì cậu ta bảo:
“Chiều khách mới xuống, nhưng lúc bác ra khỏi nhà thì con Jên cũng bỏ đi, xuống nằm ở dưới nhà ăn tiểu đoàn. Em gọi thế nào nó cũng không về. Mang cơm xuống nó cũng không ăn. Chả biết bác có dỗ được nó không?”
Nghe Thắng nói vậy tôi lao bổ xuống nhà ăn. Con Jên nằm áp má xuống đất, thấy tôi cũng không ngẩng lên. Tôi vuốt tay lên lưng nó thì thấy từ khóe mắt nó bò ra hai dòng nước. Tôi bèn bế nó lên nhưng nó cứ một mực giãy ra, toài người xuống.
Đích thân tôi mang cơm nó cũng không ăn. Tôi bèn trở về phòng nghỉ trưa, lòng đầy bất an. Khi tỉnh dậy thì đã thấy mấy cậu liên lạc đang rôm rả bảo nhau giã riềng, lấy mẻ, lấy lá mơ. Cậu liên lạc tên là Thịnh, người công giáo quê Nam Định, thì thầm bảo tôi:
“Con chó của bác lạ thật. Nó biết mình chết nên kệ cho bọn em bắt, không hề giãy dụa, mặt cứ buồn rười rượi.” Tôi cảm thấy xấu hổ và đau đớn. Tôi đã không bảo vệ được người bạn trung thành của mình.
Tôi đã viện ra đủ thứ lý do, trong đó có lý do nó chỉ là con chó, để bán đứng nó. Trong trường hợp ngược lại, chắc chắn con chó sẽ chấp nhận bị trả thù, bị đày ải, bị nguyền rủa thậm chí chịu chết…chứ nhất định không bán đứng tôi, không nộp tôi cho thần chết như tôi đã làm thế với nó một cách hèn hạ và độc ác.
“Mình thật không bằng một con chó”-Ý nghĩ này cứ bám theo tôi suốt ngần ấy năm, như một bản án không lời nhưng hình phạt thì luôn hiện hữu.
Năm 2000, vừa tròn 13 năm kể từ khi giải ngũ, tôi mới có dịp trở lại thị xã Lào Cai. Sau khi làm xong việc, tôi đã định về ngay. Nhưng cả đêm tôi cứ thấy trong lòng không yên. Tôi quyết định ở lại thêm một ngày để chiều hôm sau lặng lẽ mò trở lại cái nơi con Jên bị giết.
Trước đó tôi mất hàng giờ đứng trên sân thượng nhà khách tỉnh uỷ để xác định được vị trí trước kia là khu bếp tiểu đoàn, nơi con Jên nằm ngẫm nghĩ về con người, trước khi bị giết. Tôi bèn đi bộ hơn 4 km tới nơi bạn tốt của tôi ngã xuống, đúng hơn là bị tôi bán đứng.
Tại đó tôi cứ tha thẩn như người mất hồn. Bỗng trong một chớp mắt, khi ngước lên cái nơi con Jên vẫn đứng ngóng mỗi khi tôi đi đâu đó hơn chục năm về trước, thì tôi bỗng thấy nó, đứng ưỡn ngực, đầu vươn cao bốn mắt nhìn về phía tôi, miệng nhoẻn cười như muốn nói:
“Tôi vẫn ở đây đợi ông chủ”. Tôi cúi đầu như người mặc niệm, lòng thầm nói: “Tao xin lỗi mày! Sau này tao xin đổi kiếp cho mày để được báo đáp tình sâu nghĩa nặng của mày. Hãy tha thứ cho thằng người hèn hạ này”.
Tôi chưa bao giờ phải xin lỗi ai khẩn thiết như thế.
Trước khi về Hà Nội, qua một đồng đội cũ quê Sapa, tôi biết ông Đ. B. B đã chết sau khi giải ngũ. Ông bị ngã từ tầng ba ngôi nhà mới xây xuống vào hôm ông mời bạn bè dự lễ khánh thành, tất nhiên là có thịt chó.
Không hiểu sao tôi nghĩ ngay đến con Jên và cứ thỉnh thoảng lại rùng mình bởi ý nghĩ vớ vẩn đó.

Nhưng đống đá dần dần lớn lên qua tháng năm trở thành một cái gò, và dân làng bắt đầu hiểu ra. Nhiều người cũng góp thêm sức vào, chẳng mấy chốc đã đủ đá xây cầu. Rồi người ta thuê thợ xây dựng đến làm. Trong quá trình cùng làm, cậu bé bị mảnh đá bắn vào mắt và mù cả hai mắt. Người dân lấy làm thương cảm lắm. Nhưng cậu bé, mặc dù dã què lại thêm mù, vẫn không một lời ca thán và cố gắng trong khả năng của mình cùng góp sức xây cầu với dân làng.
Cuối cùng, sau những tháng ngày nhọc nhằn vất vả, cây cầu đã được xây xong. Dẫu không nhìn thấy gì, nhưng trên khuôn mặt của cậu hiện một nụ cười rạng rỡ.
Đột nhiên một tiếng sấm nổ vang dù trời quang mây tạnh. Và người ta thấy rằng cậu bé ăn mày đáng thương đã bị sét đánh chết ngay trên chiếc cầu mới xây.
Bấy giờ đúng lúc Bao Công đi thị sát qua làng. Dân làng kéo ra kêu oan với Bao Công, rằng tại sao trời xanh lại hại người tốt. Trước câu chuyện quá thương tâm, và cảm thấy quá bất công, Bao Thanh Thiên chẳng cầm nổi lòng mình, bèn viết “thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện”.
Trở về Kinh thành sau chuyến công du, Bao Công cảm thấy trong lòng không thoải mái, nhất là về những gì ông đã viết trong lúc không dằn được lòng mình. Trong bản tấu trình, ông đã không tâu lên Hoàng thượng về sự kiện hy hữu đó.
Hoàng thượng hôm ấy mời Bao Công đến chơi và dẫn Bao Công đến gặp hoàng tử mới ra đời trong lúc Bao Công đi thị sát ngoại tỉnh. Hoàng tử trông khôi ngô nhưng mắc tật khóc suốt ngày. Hoàng thượng cũng muốn hỏi Bao Công xem có cách nào cho hoàng tử hết khóc. Bao Công thấy hoàng tử da dẻ trắng trẻo mịn màng, và trong lòng bàn tay dường như có một hàng chữ. Ghé mắt vào nhìn kỹ thì chính là “thà làm điều ác còn hơn làm điều thiện”! Quá bất ngờ và xấu hổ, Bao Công lấy tay để xoá, và kỳ lạ thay, ông vừa vuốt qua thì dòng chữ biến mất. Hoàng tử nín khóc tức thì.
Hoàng thượng rất đỗi ngạc nhiên, hỏi tại sao lại như thế. Bao Công sợ hãi quỳ xuống kể lại hết đầu đuôi câu chuyện, và xin Hoàng thượng xá tội vì đã không báo cáo về chuyện này trong bản tâu trình. Hoàng thượng bèn ra lệnh Bao Công phải điều tra cho rõ vụ việc.
Đêm ấy Bao Công ngả đầu lên chiếc gối “âm dương địa phủ” và lập tức trong mộng đi đến cõi âm gian. Diêm Vương kể cho ông rằng hoàng tử đó vào mấy đời trước từng làm việc đại gian ác, nên Thần đã an bài phải trả nghiệp ác ấy trong ba đời: đời thứ nhất què cụt, đời thứ hai mù lòa, và đời thứ ba bị sét đánh chết. Nhưng khi què quặt xin ăn, cậu bé đã luôn vì người làm việt tốt, nên Thần đã rút lại thời gian trả nghiệp và khiến cậu bé ăn xin bị mù. Sau khi mù, cậu bé đã không những không oán thán ai hết mà vẫn luôn vì người làm điều thiện. Vì lý do ấy mà Thần đã an bài lại một lần nữa để cậu bé trả hết nghiệp trong một đời. Diêm Vương nói với Bao Công: “Một đời trả hết nghiệp thay cho ba đời, lại còn được chuyển sinh làm đương kim Thái tử, hưởng thụ phúc phận của Thiên tử.”

Con gà: Tôi vừa xem phim về.
Phóng viên: Trời ơi, anh yêu điện ảnh ư?
Con gà: Yêu lắm. Nhưng khổ thay, đó chỉ là tình yêu đơn phương.
Phóng viên: Sao lại đơn phương?
Con gà: Vì hình như điện ảnh không yêu tôi, rất ít khi gà được lên phim.
Phóng viên: Anh đừng buồn, anh ạ. Phim là của ca sĩ, người mẫu, diễn viên… chứ không phải của gà.
Con gà: Trừ phim hoạt hình.
Phóng viên: Ừ, những phim ấy thường do các con vật thủ vai.
Con gà: Vậy theo nhà báo, phim hoạt hình có gì hay?
Phóng viên: Nhiều lắm. Và cái hay đó cũng nằm trong cái hay chung của điện ảnh. Đó là gây xúc động một cách hợp lý.
Con gà: Thưa nhà báo, thế nào là hợp lý?
Phóng viên: Là mọi sự kiện, mọi tính cách đều diễn ra theo một trình tự chấp nhận được.
Con gà: A, thế thì tôi sợ rằng cái trình tự ấy đang hại chúng ta.
Phóng viên: Ý gà là sao?
Con gà: Ý tôi là các nhà làm phim, các nhà phê bình và các nhà… khán giả Việt Nam hay xem xét tác phẩm dưới một góc độ thực tế, dùng thực tế làm thước đo một cách dai dẳng và bền bỉ, và rất hay la ó khi thấy có điều gì khác thường.
Phóng viên: Như thế có gì sai?
Con gà: Không sai. Nhưng như thế có khả năng chả có gì hay. Nghệ thuật không chỉ phản ánh hiện thực, mà còn phản ánh những gì chúng ta suy nghĩ và sáng tạo từ hiện thực.
Phóng viên: Theo kiểu nào, thưa anh gà?
Con gà: Đôi khi, theo kiểu táo bạo nhất.
Phóng viên: Ví dụ?
Con gà: Ví dụ như tôi vừa xem xong bộ phim "Gấu trúc Kung Fu".
Phóng viên: À, tôi biết bộ phim đó, nó rất hay. Rất nổi tiếng, đã có hàng trăm triệu người xem.
Con gà: Đúng vậy. Bộ phim đã lôi cuốn và làm xúc động rất nhiều người. Nhân vật chính là một con Gấu trúc béo.
Phóng viên: Vâng.
Con gà: Nhưng điều kỳ lạ, con Gấu ấy có bố là một con Vịt.
Phóng viên: Vịt ư?
Con gà: Đúng thế. Xin hỏi nhà báo, Vịt đẻ ra gì?
Phóng viên: À, tất nhiên là ra trứng Vịt. Toàn thế giới đều biết điều đó.
Con gà: Nhưng toàn thế giới chưa ai than phiền về việc Vịt đẻ ra Gấu trong phim. Như vậy, phải chăng, thế giới đã ngốc?
Phóng viên: Ừ nhỉ?
Con gà: Tôi thì biết chắc một điều: các nhà làm phim ấy không ngốc. Để có sức lực làm phim, họ phải ăn nhiều thứ, và có thể đã ăn cả trứng Vịt. Nhưng họ vẫn cho con Vịt làm bố con Gấu. Họ không quan tâm tới tính hiện thực một cách… mãnh liệt. Và họ đã thành công.
Phóng viên: Tôi thừa nhận, họ đã thành công.
Con gà: Cái chi tiết, Vịt đẻ ra Gấu từ bất thường đã được chuyển thành phi thường. Và nó là một bằng chứng hùng hồn cho thấy hiện thực không phải là điều quan trọng nhất trong nghệ thuật.
Phóng viên: Nào ai nói thế đâu!
Con gà: Tất nhiên. Nhưng phần lớn chúng ta hiện nay đều cư xử như thế. Chúng ta luôn luôn dùng hiện thực như một thước đo lớn nhất, thậm chí chung nhất để làm thước đo xem xét nhiều tác phẩm. Và buồn hơn cả, chúng ta thường chắc mẩm là mình đúng. Tôi thì cam đoan rằng, ở đâu có sự lạm dụng hiện thực, ở đó có sự nghèo nàn về trí tưởng tượng. Mà trí tưởng tượng là điều, theo tôi, quý giá nhất của những người sáng tác.
Phóng viên: Có lẽ anh đúng, anh Gà ạ!
Con gà: Như tất cả mọi thứ trên đời, nghệ thuật có lịch sử của nó. Ví dụ như hội họa, hầu như bây giờ không ai vẽ tranh theo lối cổ điển, trong đó tính chân thực được đánh giá rất cao. Thế giới đã có những trường phái khác rồi.
Phóng viên: Đừng phiền lòng, anh Gà ạ. Điều anh nói không có gì mới đâu. Nhưng chúng tôi, các nhà báo, các nhà phê bình và cả các nhà sáng tác đang đề cao hiện thực bởi vì trong cuộc sống hiện nay, hiện thực vẫn rất quan trọng, vậy thôi.
Con gà: Tôi xin nhắc lại là tôi hiểu tầm quan trọng của nó. Nhưng nếu cứ đề cao tính hiện thực một cách thái quá, có thể nghệ thuật của chúng ta sẽ tự làm nghèo mình.
Phóng viên: Thôi được rồi. Sắp tới tôi sẽ đề nghị làm một bộ phim mà trong đó Gà có sừng hoặc Tê Giác có vẩy cho anh vừa lòng.
Con gà: Vấn đề của nhà báo là làm sao cho người có cánh cơ!

Là một chàng trai nhanh trí, có ngoại hình khá và học lực trung bình, tôi không cho phép mình mắc sai lầm đó. Tôi tự hiểu phải nhớ tặng quà cô gái kháu khỉnh của tôi, nhất là trong dịp Valentine.
Ôi Valentine. Đó là ngày của tình yêu. Trong một năm, có bao nhiêu ngày xăng tăng giá, có bao nhiêu ngày phòng chống cúm gà, chưa kể những ngày nước yếu và ngày điện cúp, nhưng chỉ có 24 giờ Valentine. Thật là quý quá, thật, thật đúng cơ hội vàng, bỏ qua là chết !
Nhưng tặng quà gì ? Lần thứ nhất, với cô bạn gái thứ nhất, tôi dâng lên nàng một lọ nước hoa. Do chưa bao giờ dùng thứ ấy, tôi vào cửa hàng và kiếm một chai thật to. Tôi không biết tiếng Anh, chỉ thấy những chữ bên ngoài được mạ bạc rất hoành tráng. Đến khi nàng mở hộp, mới phát hiện ra loại ấy chỉ dùng xịt phòng.
Thế là tình yêu mới lóe lên đã vụt tắt như ánh sao băng.
Kể điều đau khổ ấy cho thằng bạn thân, nó ôm bụng cười hí lên như con hà mã:
- Trời ơi, nhà quê ơi, nước hoa là vứt ! Bánh kẹo, giày dép, kem đánh răng, tăm xỉa răng, keo xịt tóc... cũng vứt ! Valentine là phải tặng sô-cô-la ! Chỉ sô-cô-la. Duy nhất sô-cô-la, không cho phép gì ngoài sô-cô-la ! Nhớ chưa !
Tôi đau đớn bừng tỉnh. Suýt nữa thì tôi đã tặng nàng (thứ hai) một cái bẫy chuột kèm nửa cân giò lụa (loại không có hàn the!). Sô-cô-la ! Tôi nhớ rồi. Tôi thuộc rồi. Tôi khắc vào trong tim rồi.
Lao mình ra siêu thị. Chưa ăn sô-cô-la bao giờ, nhưng trong tâm trí, tôi hiểu đấy là những thanh hơi vuông vuông lại hơi dài dài, gói trong giấy bạc lấp lánh.
Trời ơi, đâu đơn giản thế. Hỏi thăm tới quầy sô-cô-la, tôi kinh hoàng thấy nó mênh mông như sân bóng đá. Kẹo xếp ngổn ngang. Thứ nhỏ bằng ngón tay, thứ to như cái thớt. Thứ hình thoi, thứ hình tròn và cả những thứ hình con sâu róm. Về màu sắc cũng thật phi thường: có viên màu cánh gián, có cục đen sì và có tảng đỏ hồng như gạch nung trong bếp. Chưa kể có viên ruột xanh, ngoài tím, ở giữa lại ánh lên sắc tía như cái mào gà. Về kích cỡ mới thật choáng váng: có hộp to như con thuyền, có viên lù lù như quả tạ, lại có thứ sô-cô-la bột, nhỏ như bụi li ti, tôi đoán không phải để ăn, mà để rắc lên đầu người đẹp !
Tôi sờ tay vào túi, nắn lại mấy đồng tiền mồ hôi nước mắt, rồi nghiến răng chọn lấy một khúc hình bát giác, có vẽ trái tim, có vẽ cả hoa hồng.
Đúng năm giờ sáng ngày Valentine, tôi tắm rửa sạch sẽ, thoa kem bóng lên đầu, gõ cửa nhà nàng với cái hộp trên tay.
Nàng cầm lấy thanh kẹo và mặt lập tức sưng lên như cả chục con ong cùng đốt: thì ra đấy là loại sô-cô-la dùng cho người ăn kiêng khi mắc chứng béo phì.
Tôi chết đứng. Tình yêu đổ vỡ tan tành.
Lần thứ hai, ôi, không biết đàn ông có thể chịu được bao nhiêu lần Valentine trước khi chết, với nàng thứ hai, tôi chọn một tấm kẹo trang nhã, một bên in hình chùm nho, một bên in hình con chó sói. Kẹo để trong hộp, hộp để trong bao, bao nằm trong bịch và tất cả xếp trong một cái lẵng mây nom như tuyệt tác nghệ thuật.
Xách cái lẵng như xách cổ gà, tôi phi đến chỗ nàng theo nước kiệu, miệng lẩm nhẩm một đoạn thơ tình tứ mới học đêm qua.
Nàng ra đón, cầm lấy lẵng và buông rơi như một quả bom: Đấy là loại sô-cô-la dành cho người mắc bệnh tiểu đường!
Tôi ê chề quá. Đau khổ quá ! Tôi thề sẽ làm lại từ đầu. Tới Valentine lần thứ ba, với nàng thứ ba, tôi cẩn thận hỏi thăm thật kỹ, rồi mua một hộp có rất nhiều miếng nhỏ bên trong. Nếu miếng này hỏng, có miếng kia bù vào. Không sao trượt được.
Nàng đón tôi, nhìn tôi cười như mặt trời đang mọc rồi móc miếng kẹo cho vào mồm như thỏ con nhai cà rốt. Bỗng nàng ho sặc sụa, ôm ngực vặn cong người. Thì ra đó là thứ sô-cô-la nhân rượu, mỗi viên là một loại rượu khác nhau. Nàng đã vớ trúng viên rượu... rắn !
Cuộc tình tan vỡ như bóng đèn dưới bánh xe hơi.
Tôi trở nên căm thù sô-cô-la. Tôi cảm thấy nó như một mảng bùn mà cuộc đời trai trẻ của mình sẽ sa lầy trong đó.
Đêm nay là đêm Valentine cuối cùng.
Thằng bạn, kẻ mà con gái bu theo như kiến bu cục đường hạ cố giảng giải cho tôi:
- Sô-cô-la không phải là một thanh kẹo, không phải là một sản phẩm pha trộn tùy tiện giữa bột và đường. Đấy là một thức ăn văn hóa, một giá trị tinh thần, nói tóm lại, một khối dinh dưỡng có tâm hồn.
Tôi quán triệt ngay điều đó. Tôi vào một cửa hàng thật sang trọng, bán toàn tiểu thuyết, lịch và tranh để tìm sô-cô-la. Kia rồi. Kia là miếng kẹo tuyệt đẹp, thanh tú, lấp lánh bên ngoài in hình một cô gái trẻ có nước da nâu. Sô-cô-la đúng thật một con người. Tôi mua khẩn cấp, rồi thắt cho nó một chiếc nơ đỏ, bay tới nhà thiếu nữ mới quen. Chả ai kháng cự nổi món quà này.
Nàng cũng đón tôi ở cửa, cũng e lệ mở hộp ra; rút thanh kẹo sáng loáng đưa lên miệng, cắn bằng hàm răng trắng như bắp non. Có tiếng gì như tiếng kính vỡ: Đấy không phải kẹo. Đấy là CD nhạc của nữ ca sĩ Đoan Trang có tựa đề: Sô-cô-la !

Ai cũng ngạc nhiên khi nghe tin cô chia tay người yêu lúc lễ đính hôn sắp diễn ra. Người thương thì bảo không hiểu nổi cô muốn gì. Thời này tìm người vừa có gia cảnh tốt, thành đạt, phong độ như người yêu cô không hề dễ dàng. Kẻ ghét thì hả hê vì có cơ hội với một đối tượng tốt như thế. Nhưng khi cô báo sẽ nghỉ làm thì công ty ai cũng nói cô điên. Bao người vất vả xin việc, không yêu thì thôi, việc gì phải đoạn tuyệt đến thế? Đang yên lành với một vị trí tốt, tự nhiên, chỉ vì muốn tránh mặt, không gặp người yêu cũ mà đi kiếm cái khổ vào thân. Ngày cuối ở công ty, cô vẫn cười tươi như thể chẳng có chuyện gì xảy ra.
Cô nhớ lại gương mặt hầm hầm của người yêu khi anh đi tìm và chất vấn cô. Cô cười và nói cho anh biết thật ra trong chuyến công tác vừa rồi vì nhớ anh nên cô đã cố gắng thu xếp về sớm. Muốn anh bất ngờ, cô đã lẳng lặng tới nơi anh sống với dự định tặng anh một con ốc biển rất đẹp và rủ anh cùng ăn tối nhưng cô đã thấy cái không nên thấy. Cô thấy anh không phải chỉ có một mình. Cô kể với giọng điệu nhẹ tênh như cô là người ngoài cuộc. Thật ra, cô cũng biết tính anh đào hoa nhưng cô nuôi cái hy vọng anh sẽ thay đổi nhưng hy vọng của cô được trả như thế đấy? Nghe tới đó, khuôn mặt người yêu cô trắng bệch và đó cũng là lần cuối anh nhìn thấy cô khóc.
Sáng nay, cô đi phỏng vấn bên công việc mới. Kẹt xe nên khi đến nơi, lao vội vào thang máy và cô va vào một người, hậu quả là một vệt cafe xuất hiện ngay trên áo anh ta. Cô chưa kịp mở miệng xin lỗi thì anh ta đã nói:
- Thật xui xẻo.
Không biết có phải câu nói kia vô tình gợi nhớ vết thương lòng nơi cô nên cô chẳng ngần ngại đáp trả:
- Ai bảo anh đi thang máy mà uống cafe. Rõ là vô duyên, vết cafe nhỏ thôi mà, đàn ông gì khó ưa, ai gặp anh thật vô phúc.
Trong khi anh ta còn trợn mắt chưa biết nói gì thì cửa thang máy mở. Không cần nhìn tới anh ta lần thứ hai, cô bước nhanh vào.
Khi cô được thông báo tới lượt mình phỏng vấn. Vừa đẩy cánh cửa bước vào, cô tròn mắt. Cô bước tới bàn, cầm xấp hồ sơ và nói:
- Không cần nữa đâu, tôi biết tôi rớt rồi.
Đôi mắt có cái áo dính vệt cafe quát lên:
- Cô đi đâu đấy? Không phải ai cũng nhỏ mọn như cô nghĩ đâu.
Cuối buổi phỏng vấn, trước sự ngạc nhiên của cô, anh chàng ấy nói:
- Chào mừng cô đến với công ty của chúng tôi. Nếu không có vấn đề gì, ngày mai cô có thể bắt đầu vào làm.
Cô bắt đầu công việc mới. Với kỹ năng chuyên môn của mình, cô nhanh chóng hòa đồng vào guồng mới. Nhưng hình như nụ cười không bao giờ xuất hiện trên môi cô. Khoảng một tuần nay, không biết tại sao người yêu cũ biết được nơi cô làm. Chiều nào anh cũng chờ cô dưới công ty dù bao nhiêu lần cô đã nói cả hai đã chấm dứt, cô quá mệt mỏi để quay trở lại. Cô không muốn vết thương cũ lại một lần nữa chảy máu. Nhưng mặc cho cô phản đối, anh vẫn cứ đến.
Chiều hôm nay, khi người yêu cũ nắm chặt tay và kêu cô lên xe thì có tiếng nói vang lên:
- Anh kia, níu kéo gì đấy? Ai lại như thế với con gái. Làm mất mặt đàn ông quá anh bạn.
Không biết có phải vì nhiều người tò mò nhìn ngó sau tiếng nói hơi lớn giọng đó không hay vì sợ, người yêu cũ của cô nổ máy xe và đi thẳng.
Buổi trưa hôm sau, giờ cơm trưa, anh nói với cô:
- Tôi có một bản hợp đồng muốn bàn với cô. Tôi có thể mời cô uống cafe ở căng tin không?
Thật ra cô không có cảm tình với anh, thậm chí là ghét hay gọi đúng hơn là một thứ ác cảm. Dù anh là sếp, hơn cô một bậc trong công ty. Cô không muốn nhận lời nhưng vì nghĩ tới hai chữ ''hợp đồng'', cô miễn cưỡng gật đầu đồng ý. Khi cô yên vị và nhâm nhi ly sữa đá, anh mở lời:
- Tôi muốn ký một đồng miệng cùng cô ba tháng. Trong thời gian đó, tôi sẽ đưa đón cô đi làm, giúp cô thoát khỏi cái anh chàng người yêu mà cô đang trốn chạy. Cô có thể gọi cho tôi bất cứ lúc nào nếu cô thấy cần có sự trợ giúp của tôi. Bù lại, cô cũng đóng giả người yêu tôi trong khoảng thời gian ấy.
Cô nhìn anh và hỏi:
- Tại sao tôi phải nghe theo anh và tôi được gì khi làm việc ấy?
- Tôi sẽ thay cô làm bản tổng kết của những đại lý vào cuối năm. Cô không thiệt thòi đâu mà lo.
Cô trầm ngâm nghĩ: "À, anh muốn nhờ cô làm bình phong để thoát khỏi cô gái là một đối tác của công ty. Cô có nghe trong công ty xì xào rằng cô gái đó không ngần ngại bày tỏ tình cảm dành cho anh nhiều lần. Lần đầu cô biết người con gái ấy khi cô ta đang mắng chị tạp vụ với lý do suýt làm cô ta té ngã bởi sàn nhà không khô".
Cô không sợ người yêu cũ làm phiền nhưng nghĩ đến những số liệu cũ chất chồng phải xem xét khi làm bản tổng kết cuối năm thì cô đã thấy mệt mỏi. Cuối năm Tết đến mà vùi đầu vào đó thì... Rồi cô nhớ đến cảnh những buổi chiều, người yêu cũ đến tìm như hôm trước, cô thấy ngao ngán. Suy đi tính lại, cô nhận lời, xét cho cùng, cô cũng có lợi nhiều hơn. Và trên hết là cái cảm giác anh cầu cạnh, nhờ vả làm cô thấy hả hê.
Một tháng sau khi bản hợp đồng được thực hiện, người yêu cũ không đến tìm cô nữa. Nhưng sau đó, cô mới thấy hối hận bởi tránh cái phiền này lại rước cái phiền khác nhiều hơn. Cô phải đóng vai bạn gái của người cô ghét, đi gặp bạn bè anh ta, cố ngoác miệng ra cười cho giống vẻ đang hạnh phúc trước cô gái đối tác kia... Thật mệt mỏi!
Nhưng rồi cô nhớ trước một tháng bản hợp đồng kết thúc, trên đường chở cô về nhà, nhìn cô rùng mình bởi cơn gió giao mùa, anh dừng xe vào một của hàng gần đó và trở ra với cái áo khoác. Anh khoác lên người cô. Khi tay anh vô tình chạm tóc cô, cô chợt nghe như tim đập nhanh mất một nhịp.
Tối nay là ngày anh và cô hết hạn hợp đồng. Trái ngược với suy nghĩ ban đầu là vui mừng vì thoát nạn, cô thấy lòng thiếu vắng một điều gì đó không rõ tên. Ngồi với anh trong quán cafe, tự dưng cô ước gì thời gian trôi chậm một chút. Anh lên tiếng phá tan không khí im lặng:
- Hợp đồng chúng ta đến đây là hết. Cảm ơn cô, tôi sẽ giữ đúng lời hứa, cô sẽ có bản tổng kết cuối năm.
Cũng như bao buổi hẹn trước, anh đưa cô về tới cửa, chúc cô ngủ ngon và rồ ga chạy ngay. Anh đi rồi mà cô còn đứng bâng khuâng, chưa muốn vào nhà.
Nhìn đồng hồ đã ba giờ sáng mà cô vẫn không ngủ được. Trong đầu cô như có cuốn phim quay chậm. Cô nhớ tới nét mặt lúng túng của anh khi trong lần họp lớp cũ, bạn bè hỏi anh bao giờ cho họ ăn cưới? Cô nhớ khi cô khóc vì con mèo Mi Mi bé bỏng đi lạc ở công viên, anh đã tất tả đi tìm giúp... Hóa ra anh không khó chịu, khô khan như cô nghĩ.
Cô nhớ tới lần đến nhà anh với danh nghĩa bạn gái, mẹ anh đã nắm lấy tay và vuốt tóc cô như một đứa con gái bé bỏng. Những buổi sáng anh chờ trước ngõ, những buổi trưa đi ăn cùng nhau dù là chỉ che mắt cô gái kia, buổi chiều tan sở trên đường về nhà qua những con đường yên tĩnh nghe lá rơi trên tóc mà hạnh phúc. Cô nhớ vô số thứ liên quan tới anh. Cô ngồi bật dậy, mở laptop và viết một email:
"Em cũng không biết phải nói gì đây. Vì nguyên một buổi tối hôm nay, em mong có một điều thay đổi kỳ diệu xảy ra nhưng điều đó đã không đến anh à. Thật ra, bản tổng kết cuối năm, em đã làm xong tháng trước, em không còn cần anh làm thay nữa. Em đã định giữ điều này trong lòng mình như một bí mật nhưng em nghĩ mưu cầu hạnh phúc thì không nhất thiết là đàn ông phải nói ra trước. Em không rõ tình yêu bắt đầu như thế nào nhưng nếu nó bắt đầu từ nỗi nhớ thì em đang nhớ anh - người em từng ghét. Em không biết khi anh đọc email này, anh sẽ phản ứng ra sao nhưng em... thích anh, anh ạ!".
Ngay khi cô vừa nhấn nút "send" thì yahoo của cô báo có thư mới ngay, cô "click" vào, là email của anh:
"Em à, hôm nay anh đã muốn nói với em một chuyện nhưng anh sợ cái lắc đầu từ chối nơi em. Ngày em va vào anh ở thang máy, hình như đã đánh thức điều gì ngủ quên trong anh từ lâu lắm! Anh không phải vì sợ phiền với cô gái kia mà ký hợp đồng với em, đó chỉ là cái cớ để được ở gần em. Anh thích nụ cười của em, anh muốn thấy nụ cười đó trở lại. Ba tháng qua đối với anh là một khoảng thời gian rất vui vẻ. Cho anh cơ hội chăm sóc em nhé! Mình ký tiếp một bản hợp đồng mới không thời hạn được không em bởi vì anh rất thích em".
Đêm hôm đó ở hai nơi trong một thành phố, có một anh chàng và một cô nàng không ngủ, mong chờ trời nhanh sáng...

Hôm ấy, Hùng - người bạn thân và là đối tác của Nguyên, hẹn anh ra một quán cafe để bàn về một bản hợp đồng mới. Khi Hùng ra về, Nguyên đứng dậy, cho cái laptop vào cặp để chuẩn bị đi đón cô bạn gái, Trúc Ly. Bỗng, một đôi tay bé nhỏ ôm lấy chân anh, kèm theo tiếng gọi khẽ của một đứa bé:
- Ba... con với mẹ kiếm ba lâu lắm!
Theo phản xạ anh vội xoay người và cúi xuống. Trước mặt anh là một bé gái xinh xắn chừng năm tuổi tóc cài nơ chuột mickey màu hồng nhạt, đôi mắt trong veo ngân ngấn nước đang nhìn anh. Với tình huống bất ngờ chưa gặp như thế này, anh không biết phải làm sao ngoài cách đưa mắt nhìn như tìm kiếm người đi cùng bé. Đúng lúc đó thì cô xuất hiện, cô để vội hai ly kem trên tay lên bàn đi tới gỡ tay bé ra khỏi chân anh và nói với anh:
-Xin lỗi anh, bé nhận nhầm người...
Anh ngước mắt lên nhìn, đó là một người phụ nữ chừng 27 tuổi, ăn mặc giản dị. Qua cử chỉ của cô, dễ dàng nhận ra cô là mẹ của đứa bé. Nhưng điều anh quan tâm là hình như ánh mắt của cô ấy khi nghiêng nghiêng nhìn rất quen. Hình như anh đã gặp ở đâu rồi nhưng nhất thời anh không nhớ ra. Khi anh còn đang lục tìm trong trí nhớ thì cô đã dẫn bé gái đi mất. Mặc cho mẹ kéo đi, bé gái vẫn dõi ánh mắt như một dấu hỏi về phía anh.
Hai tuần sau, vào một ngày thứ bảy rảnh rỗi, khi đang đi siêu thị mua đồ, anh chợt giật mình vì lại bị ôm chân như ở quán cafe. Khi nhìn xuống, anh ngạc nhiên vì vẫn là bé gái xinh xắn ấy cùng câu nói cũ. Và cô cũng xuất hiện sau đó với vẻ mặt ngại ngùng cùng chiếc xe đẩy đồ đang mua dở dang. Nhưng lần này, mặc cô kéo, đứa bé vẫn cố ôm lấy anh. Cô bé vùng vẫy và khóc oà lên khi bị mẹ kéo:
- Con cần ba, con với mẹ nhớ ba lắm! Ba... ba không thương mẹ với con sao?
Trước những cái nhìn tò mò của những người chung quanh, mắt cô long lanh bối rối. Lại ánh mắt quen thuộc đó khiến anh chợt nhớ cần phải hỏi cô vài điều. Để tránh cho cô phải khó xử trước đám đông, anh bước tới, đưa tay ẵm đứa bé lên, nói nhanh là muốn giúp cô và mời cô ly cafe vì anh có chuyện muốn hỏi. Khi ngồi yên vị trong quán, anh nói cô rất quen, anh đã gặp rồi, anh đoán chắc như thế. Những thắc mắc của anh được cô nhanh chóng giải thích:
- Em là Phương, em biết anh tên Nguyễn Hoàng Nguyên. Mười năm trước, vào một buổi chiều, khi đi học về ngang sân vận động của trường đại học kinh tế, vô tình trái banh do anh đá bay trúng vào mặt em khiến em ngã nhào, bể kính mắt và quần áo lấm lem. Anh đã đưa em về xin lỗi ba mẹ em và sau đó mua kính khác đền cho em. Anh không nhận ra em cũng đúng vì bây giờ em dùng kính sát tròng. Đây là con em, bé Yến Oanh được 5 tuổi. Ba bé không còn. Vì anh giống ba bé nên mới có những chuyện xảy ra như thế. Em xin lỗi.
Anh đoán không sai mà, cô đúng là người quen cũ. Anh hỏi thăm thì biết cô đang sống ở một căn nhà thuê nho nhỏ cũng gần khu nhà anh. Cô nói cô trở lại thành phố bởi muốn bé Oanh có điều kiện học hành tốt hơn. Cô mời anh có rảnh thì tới chơi. Lúc ra về, khi trao đổi số điện thoại cho cô, anh muốn nói với cô, "ngày xưa anh rất có ấn tượng với cô. Sau đó, anh có trở lại nhà cô tìm kiếm nhưng người ta nói gia đình cô đã dọn đi nơi khác". Có điều, anh ngập ngừng, lại không dám nói.
Thời gian sau đó, thỉnh thoảng anh vẫn hẹn cô cafe như những người bạn. Bé Oanh luôn được cô dẫn theo và bé vẫn kêu anh là ba như cũ. Anh ngăn cô, cứ để như thế, đừng cấm cản con bé. Cô cười khi nghe anh nói "coi như cho anh cơ hội trải nghiệm thử việc làm cha một đứa trẻ xinh xắn, đáng yêu như thế".
Một buổi chiều, khi đi làm về ngang một cái shop đồ chơi trẻ em, thấy con gấu bông màu hồng rất dễ thương, anh ghé vào mua và tới nhà cô. Khi anh gọi điện thoại, cô nói đang cùng bé Oanh chơi với nhau ở công viên. Anh ra đến nơi thì thấy mẹ con đang chơi trò cầu trượt và cùng cười vang trong buổi chiều nhạt nắng. Anh đứng khựng lại, tự nhiên anh thấy có cái gì đó len vào tim anh, anh thấy cô và bé thật đẹp.
Cả tuần nay, anh mất ngủ vì lô hàng nhập khẩu có vấn đề, phải chờ kiểm tra. Cứ nghĩ tới cái ngày vỡ hợp đồng, phải bồi thường thì anh toát cả mồ hôi. Nguy cơ phá sản lơ lửng trên đầu, chẳng hy vọng gì cứu vãn. Tối hôm đó, ra khỏi công ty, anh thấy sao lòng trĩu nặng, rẽ tay lái, anh chạy xe đến nhà Trúc Ly. Khi anh tới nhà, Trúc Ly đang say sưa hát hò và ăn uống với đám bạn gái. Anh lặng lẽ quay ra, anh không biết phải đi về đâu trong khoảnh khắc buồn phiền này... Anh chợt nhớ tới cô và bé Oanh.
Nghe tiếng chuông, cô chạy ra mở cửa. Bắt gặp anh trong bộ dạng thiểu não như thế, cô không hỏi anh chuyện gì, chỉ lặng lẽ đi nấu bữa ăn tối. Sau bữa cơm, trời đổ mưa tầm tả. Cô nhỏ nhẹ nói với anh, nếu anh không ngại, anh có thể ở lại. Cô biết anh đang gặp khúc mắc. .Khi ba mẹ cô di dân, đoàn tụ với anh trai ở nước ngoài, có để lại cho cô một căn nhà, hiện cô đang cho thuê. Nếu anh đồng ý thì ngày mai cô mang đi thế chấp ngân hàng số tiền đó coi như cô đầu tư vào công ty anh.
Trong khi anh còn đang chần chừ, sợ thất bại thì cô đã động viên anh. Thật ra thì số tiền đó cũng chẳng thể giúp anh giải quyết hết vấn đề hiện tại nhưng nhìn ánh mắt đầy niềm tin của cô, anh thấy mình như được tiếp thêm nghị lực. Tối hôm đó, khi cô kể chuyện "Cô Bé Lọ Lem" cho bé Oanh nghe. Anh nằm trên sofa nhà cô tận hưởng khung cảnh yên bình mà hình như trong cuộc sống của mình, anh thiếu từ lâu lắm! Anh chìm dần vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau, anh tới công ty với tâm trạng bình thản, chờ đợi những điều xấu nhất có thể xảy ra. Trưa hôm đó, anh hẹn Trúc Ly đi ăn cơm và nói lời chia tay, mặc cho cô giận dữ và nói là sẽ trả đũa, chẳng bỏ qua như thế cho anh. Khi cô đi rồi, anh cười nhẹ và tự hỏi không hiểu tại sao bao năm qua, anh có thể cùng Trúc Ly làm thành một đôi? Anh hiểu rõ không phải cô yêu thương hay hối tiếc khi chia tay anh vì có khối người săn đón ngoài kia. Cô yêu "cái tôi" của chính mình nên cô không chấp nhận khi người nói lời chia tay lại là anh.
Ngay trong tuần đó, vào một đêm khuya, chuông điện thoại của anh đổ dồn, nhìn thấy số của cô, anh vội vã nghe. Trong tiếng ngắt quãng, cô nói cho anh biết bé Oanh bỗng nhiên đau bụng vật vã, cô đang trên taxi đưa tới bệnh viện và cô thấy sợ hãi. Khi anh tới bệnh viện, nhìn dáng nhỏ bé của cô khi ngồi chờ trước phòng cấp cứu, lòng anh ngập tràn niềm thương xót. Anh không nói gi,# lặng lẽ đến ngồi bên cô, nắm bàn tay cô siết nhẹ. Cô tựa đầu vào vai anh khóc nức nở. Đó là lần đầu tiên anh thấy cô khóc.
Không biết có phải ông trời thương anh hay không, một tháng sau, lô hàng của anh được chứng minh không có liên quan hay vi phạm pháp luật. Mọi việc ổn thỏa. Buổi chiều, hết giờ làm việc, anh ghé mua bánh kem cho bé Oanh. Từ ngày bị nhập viện cảm lạnh đến nay, con bé chưa được ăn lại món bánh ưa thích.
Nhớ đến nụ cười của cô và khung cảnh ba người lại ríu rít bên bàn ăn như thời gian qua, anh nhấn ga cho chiếc xe lao nhanh về phía trước. Khi tới nhà cô, mặc cho anh nhấn chuông nhiều lần, căn nhà vẫn tràn ngập trong bóng tối. Anh gọi điện thoại cho cô... không liên lạc được. Anh lo lắng, sốt ruột... đi tới đi lui thì gặp bác hàng xóm bên cạnh, bạn sợ sệt nói:
- Sáng nay có một cô người cao cao, nhìn rất đẹp, đi cùng vài người nữa đến đây. Không biết chuyện gì mà họ đập phá và chửi bới cô Phương là nạ dòng, đi giật người yêu của kẻ khác. Khi lối xóm xúm lại can ngăn, họ mới chịu bỏ đi. Trưa, tôi thấy cô Phương mắt đỏ hoe, kéo vali và dẫn theo bé Oanh. Cô ấy có sang nhà tôi gửi chìa khóa, nhờ tôi nói với chủ nhà là cô ấy không thuê nữa khi hết hợp đồng và nếu gặp cậu thì đưa cho cậu lá thư này.
Không khó khăn để anh đoán biết cô gái ấy là Trúc Ly và đám bạn cơm rượu. Anh thắt lòng khi nghĩ đến cảnh cô phải chịu thiệt thòi khi gặp những người như vậy. Anh nhanh chóng mở bức thư ra đọc ngay. Những con chữ nhảy múa trong mắt anh:
''Khi anh đọc lá thư này, chắc em đi xa rồi. Anh đừng kiếm tìm phí công bởi khi quyết định ra đi, em đã biết làm sao để anh không thể tìm thấy. Em cảm ơn anh trong thời gian qua đã đối xử rất tốt với mẹ con em. Thật ra có một điều em không nói lâu nay. Nếu tình yêu đến từ cái nhìn đầu tiên thì mười năm trước em đã yêu anh rồi, ngốc ạ! Vào ngày đầu tiên anh đá trái banh vào trúng em đấy. Nhưng em nhút nhát không dám nói. Khi ba mẹ em chuyển đi nơi khác, em muốn liên lạc với anh nhưng em mặc cảm vì mình tầm thường và nhỏ bé trong khi anh thì nổi trội và xuất sắc. Bao năm qua, em vẫn âm thầm dõi theo từng bước chân của anh.
Ngày anh đạt danh hiệu là một trong những doanh nghiệp trẻ tiêu biểu, em đã có mặt ở hàng ghế trong khán phòng với bó hoa. Em muốn chúc mừng anh nhưng em lại lặng lẽ quay ra khi thấy những cô gái xinh đẹp khác ôm chầm lấy anh. Cũng đúng thôi, anh xứng được như thế. Em tầm thường và mờ nhạt thì đâu có lý nào được anh chú ý tới, em chỉ có thế đứng từ xa mà nhìn. Khi biết anh có người yêu là cô người mẫu Trúc Ly, em tuy buồn nhưng vẫn mừng thầm cho anh. Em không di dân cùng ba mẹ bởi trong thẳm sâu con tim, em còn nuôi hy vọng mong manh là ngày nào đó có thể ở cạnh anh dù tư cách là một người bạn.
Còn đây là điều bí mật mà em chưa nói, bé Oanh không phải là con của em. Bé không có cha bởi mẹ bé là một cô gái đáng thương mà em tình cờ biết khi làm tình nguyện viên trong một chương trình đường phố thời còn sinh viên gần ra trường. Mẹ bé bị hậu sản mất đi. Lúc đó, ba mẹ em di dân, em sống một mình nên cũng không bị ràng buộc gi,# em đem bé về nuôi. Khi lớn một chút, bé hỏi về ba thì em lấy những hình ảnh của anh do chính em âm thầm thu thập được, nói ba là anh và đi làm ăn xa. Khi bé lớn, em sẽ dẫn đi tìm ba. Muốn bé như bao đứa trẻ khác, không phải bị mặc cảm về quá khứ nên em không cho bất cứ ai biết chuyện của bé và nhầm đảm bảo bí mật của mình nên em chuyển trở lại thành phố này sinh sống. Sau đó, em dẫn bé đi ăn kem thì vô tình gặp anh trong quán cafe dạo trước. Em không ngờ rằng bé có thể nhận ra anh là người trong bức ảnh và mọi chuyện xảy ra cho đến nay.
Em thừa nhận là em không tốt bởi không nói ra hết những điều này sớm hơn bởi em sợ khi anh biết thì anh không quan tâm đến em nữa. Nhưng hôm nay, em hiểu rồi anh ạ! Tình yêu không bao giờ có cái kết khi chỉ từ một phía, Trúc Ly - cô ấy nói đúng , anh chỉ cảm thấy mang ơn và thương hại, tội nghiệp hoàn cảnh của hai mẹ con em mà thôi. Em còn ở gần anh thì chỉ làm hại anh. Dư luận sẽ cười nhạo anh vì qua lại với một người mẹ đơn thân như em. Anh vốn là thứ em đánh cắp của người khác thì tới lúc em phải hoàn trả lại. Có những giấc mơ thật ngắn nhưng mà thật vui...''.
Mắt anh nhoè đi, anh xếp lá thư lại không đọc tiếp, tự mình thì thầm: ''Giá như anh nói ra với em là anh đã chia tay Trúc Ly. Phải chi em biết anh chưa bao giờ tội nghiệp hay thương hại em. Anh không dám nói ra bởi anh sợ em nghĩ anh thừa nước đục thả câu. Sợ em từ chối và tránh né. Bây giờ anh biết tìm em ở đâu đây?".
Một năm sau, vào buổi tối chủ nhật yên ả ở tỉnh nhỏ. Có một người phụ nữ trẻ dẫn theo đứa con gái, họ ngồi ăn kem trong một quán nhỏ cạnh bờ hồ. Gần đó là chiếc radio đang phát chương trình nhạc yêu cầu buổi tối. Giọng truyền cảm của cô phát thanh viên vang đều đều:
- Sau đây xin mời qúy thính giả nghe ca khúc "Vì đó là em" được yêu cầu bởi anh Nguyễn Hoàng Nguyên gửi cho vợ mình là chị Trần Ngọc Phương kèm với lời nhắn: ''Phương à, bây giờ em với con đang ở đâu vậy? Anh muốn nói với em, anh vẫn chờ em, không phải chỉ một năm mà mười năm hay cả đời này vì anh yêu em".
Trong khi giọng ca sĩ vang lên và mọi người thả hồn theo giai điệu, từng giọt nước mắt trong suốt chảy trên đôi má của người phụ nữ. Đứa bé gái không biết vì sau mẹ khóc, bé hồn nhiên hỏi mẹ:
- Sao mẹ khóc, mẹ nhớ ba hả? Con cũng nhớ ba nữa. Mẹ dẫn con đi gặp ba được không? Con muốn ba mẹ ở chung với nhau như ba mẹ của mấy bạn trong lớp của con.
Cô ôm con vào lòng, khẽ gật đầu.
Sáng thứ hai, khi tan cuộc họp thông lệ đầu tuần, anh trầm ngâm nhìn ra cửa sổ, dưới tán cây có những con chim sâu thoăn thoắt chuyền cành. Anh bâng khâng thầm hỏi bây giờ cô đang ở đâu, có vui không, có biết một năm qua anh tìm kiếm và nhớ cô cháy cả lòng? Nhà cũ của cô, anh đã thuê lại, những lúc nhớ cô, anh tới đó ngồi hàng giờ nhìn đồ đạc mà hình dung cô và con.
"Anh còn cơ hội gặp lại em không, mình có có thể bắt đầu không?"... Chợt điện thoại reo lên cắt ngang dòng suy nghĩ của anh. Một số điện thoại lạ, không có trong danh bạ. Anh bật máy. Đầu dây bên kia im lặng, ngập ngừng chừng mười giây và một giọng nói nhỏ quen thuộc cất lên:
- Em cùng bé Oanh đang ngồi trên xe khách lên thành phố. Chừng một giờ nữa thì tới, anh ra bến xe đón em với con được không?
Sáu tháng sau, vào một ngày nắng đẹp hòa cùng nền nhạc tân hôn dìu dặt, bé Oanh với trang phục thiên thần cùng nụ cười rạng rỡ, tung những cánh hoa hồng đỏ thắm trong chiếc lẵng hoa xinh xắn vào không trung. Phía sau bé là chú rể và cô dâu với vẻ mặt ngập tràn hạnh phúc tiến vào sảnh cưới. Tiếng vỗ tay chào mừng của bạn bè và người thân vang lên.
Hôm nay là... ngày cưới của anh và cô.

Phóng viên: Thưa anh Bò, có việc gì mà nom anh buồn thế?
Bò: Nhà báo ạ, Bò tuy là một con vật nổi tiếng vô tư, nhưng thực ra tâm trạng trầm ngâm là tâm trạng chủ yếu của Bò. Và từ trầm ngâm tới buồn chỉ là một bước rất ngắn. Có lẽ cho tới phút này, chỉ có trên hộp phômai Bò mới cười mà thôi.
Phóng viên: À, tôi biết. Phômai là một món ăn ngoại.
Bò: Tôi cũng đang suy nghĩ về ngoại đấy, anh ạ.
Phóng viên: Vì sao anh suy nghĩ?
Bò: Vì sau thất bại vừa rồi của đội tuyển bóng đá Việt Nam, lại rộ lên một số ý kiến nói rằng ta cần đưa vào những cầu thủ ngoại nhập tịch.
Phóng viên: Điều ấy nghe ra cũng có lý.
Bò: Thậm chí có cả tình. Vì về mặt luật pháp, những cầu thủ ngoại nhập tịch đều đã là công dân Việt Nam, có quyền bình đẳng với mọi công dân khác và không ai được phép nghi ngờ tình cảm của họ được khát khao cống hiến cho quê hương mới.
Phóng viên: Vâng.
Bò: Nhưng chúng ta hãy bình tĩnh, xem ngoài lý và tình ra, trên đời còn gì khác nữa không?
Phóng viên: À, đối với dân mê bóng đá, có lẽ còn kết quả trận đấu.
Bò: Tôi biết. Khi thua một trận đấu trên sân người ta muốn phục thù. Nhưng bóng đá có phải là một môn thể thao toàn diễn ra trên sân hay không? Tôi e rằng không phải vậy. Bóng đá là thể thao, và mục đích cuối cùng của thể thao chân chính là phát động một sự rèn luyện trong toàn xã hội.
Phóng viên: Chứ không phải kết quả những trận đấu và số lượng những tấm huân chương?
Bò: Đúng thế. Có nhiều nhà phân tích đã chứng minh rằng dù Trung Quốc có đạt được bao nhiêu huy chương ở Thế vận hội hay Á vận hội, thì họ cũng còn lâu mới là một cường quốc thể thao. Xét theo số lượng sân tập, mức độ quảng bá và số lượng dân chúng tham gia luyện tập.
Phóng viên: Nghĩa là theo anh, một nền bóng đá của một quốc gia có thể vẫn chưa phát triển dù đội tuyển của họ chiến thắng?
Bò: Hình như thế đấy. Nếu nhìn về phương diện xã hội thì số lượng bàn thắng không phải là cái đích, hay nói chính xác hơn, không phải là cái đích duy nhất hoặc to nhất.
Phóng viên: Ý anh là gì?
Bò: Ý tôi là nếu ta gọi nhiều cầu thủ nhập tịch vào đội tuyển quốc gia (và quá trình nhập tịch này, nói thẳng ra, cũng có vài vấn đề) ta có thể làm tăng sức mạnh của đội tuyển, nhưng sẽ làm yếu đi niềm tin và lòng tự hào.
Phóng viên: Có thể anh đúng.
Bò: Ngay cả ở Philippines và Indonesia, hai quốc gia có thành tích nổi bật trong giải đấu vừa qua, đằng sau cơn ngây ngất chiến thắng, cũng có nhiều cái đầu tỉnh táo không vui vì thấy sự lấn át của các cầu thủ nhập tịch.
Phóng viên: Tôi biết. Ví dụ như tất cả các bàn thắng quan trọng của Indonesia đều do một cầu thủ không có dòng máu Indonesia ghi.
Bò: Khán giả khát khao chiến thắng, nhưng nếu chiến thắng của Việt Nam do một cầu thủ gốc Phi hay gốc Nam Mỹ làm nên thì niềm vui có trọn vẹn không?
Phóng viên: Chắc là không?
Bò: Sự xuất sắc của "ngoại binh" sẽ làm cho những "nội binh" có cảm giác mất tự tin, mất niềm khao khát vươn lên, theo tôi đó là hiện thực. Tại sao Thái Lan không nghĩ tới cầu thủ nhập tịch? Vì cho đến phút này, tôi đoán họ vẫn còn tin ở sức mình. Họ sẵn sàng thua một giải, chứ kiên quyết không thua trong xu hướng phát triển. Tôi nghĩ là chúng ta cũng nên suy nghĩ về điều ấy. Hiện nay, trên thế giới, số lượng đội tuyển quốc gia có cầu thủ nhập tịch luôn luôn rất ít, mặc dù rất nhiều câu lạc bộ mang tính toàn cầu. Đã vậy, phần lớn cầu thủ nhập tịch đều có một nữa dòng máu của quốc gia mới trong huyết thống chứ không phải hoàn toàn xa lạ.
Phóng viên: Nói tóm lại, trong việc này, anh phản đối hả anh Bò?
Bò: Xin thưa, đúng thế!
Lê Thị Liên Hoan

Phóng viên: Anh Bò này, theo anh, bất hạnh nhất của một con Bò là gì?
Bò: Có lẽ là phải trở thành phở bò trong khi đang có những dự định lớn lao, nhà báo ạ.
Phóng viên: Thế bất hạnh nhất của một con người là gì?
Bò: Có lẽ là phải trở thành một nạn nhân không mong muốn.
Phóng viên: Anh nói cũng đúng, con người chúng tôi có nhiều loại nạn nhân lắm: nào nạn nhân lũ lụt, nào nạn nhân động đất, nào nạn nhân tai nạn giao thông...
Bò: Tôi biết. Những tai nạn ấy tuy rất thảm khốc, nhưng còn hiểu được. Điều tôi thấy kỳ lạ là có những người đột nhiên trở thành nạn nhân của báo chí.
Phóng viên: Nạn nhân báo chí? Ví dụ ai?
Bò: Ví dụ như ông Phó tổng giám đốc đài truyền hình.
Phóng viên: À. Vụ ông ấy thì tôi biết.
Bò: Đấy là một nhân vật tôi không quen. Nhưng nghe nói hình như có tài và có cả cá tính.
Phóng viên: Này anh Bò ạ, tài và cá tính, những phẩm chất chả phải lúc nào cũng gây thuận lợi cho nhau.
Bò: Tôi hiểu điều đó. Nhưng để tôi nói tiếp: Ông Phó Tổng giám đốc một ngày đột nhiên từ chức. Một chức vụ mà nếu nhìn bằng mắt thường, ai cũng thấy là "ngon" và bằng lối cư xử thông thường phần lớn người ta không làm như vậy.
Phóng viên: Ừ. Rồi sao nữa?
Bò: Rồi báo chí, nhất là các báo mạng, om lên vì chuyện kia. Họ nói nhiều đến mức khiến ông kia cảm thấy khó xử. Có nhiều lý do để một con người có năng lực bỗng nhiên rời khỏi chức vụ. Và không phải lý do nào anh ấy hoặc chị ấy cũng phải nói ra.
Phóng viên: Đúng vậy.
Bò: Nhiều ý kiến cho ông là anh hùng, nhiều ý kiến cho ông là tấm gương, nhiều ý kiến thì thầm cho rằng ông dại.
Phóng viên: Anh theo ý kiến nào?
Bò: Ý kiến tôi là hãy để người ta được yên, khi hành động người ta có thể đúng, có thể sai. Nhiều lúc đúng với xã hội nhưng sai với chính người ta hay ngược lại. Việc đổ xô vào có quá nhiều bình luận sẽ khiến đối tượng không còn cư xử theo ý mình nữa. Anh bỗng dưng bị một áp lực không hề mong muốn và không hề chuẩn bị áp đặt lên bản thân.
Phóng viên: Bò ạ, trường hợp đó nhiều báo đưa tin với ý định tốt thôi mà.
Bò: Tôi biết sự tốt ấy. Tôi cũng biết có những tờ báo chỉ muốn nhân chuyện từ chức của anh để phát động một phong trào "tự giác từ quan", coi đó là cách cư xử cần khuyến khích. Nhưng quan tâm thái quá, tạo ra một áp lực nặng nề như thế có nên chăng? Sau vụ này, tôi kinh hoàng phát hiện ra rằng "từ chức" không khó bằng "giải thích tại sao từ chức". Tôi tin chắc, những ai định theo tấm gương tốt họ thấy dư luận ầm ĩ như vậy cũng phải…sờn lòng. Cứ yên vị cho xong là hơn.
Phóng viên: Anh Bò này, trong vụ đó đúng là một số phương tiện thông tin đại chúng đã hơi quá. Nhưng suy cho cùng họ không ác ý. Họ chỉ muốn… đề cao một tấm gương.
Bò: Làm báo chân chính, có chiều sâu thì không bao giờ nên xử sự đơn giản như thế. Làm báo mà không nghĩ tới số phận từng con người nhỏ, sẽ chẳng khi nào hoàn thiện cho một đám đông to.
Phóng viên: Phó Tổng giám đốc đài truyền hình không phải là một con người nhỏ!
Bò: Sai! Tại sao cứ nhìn vào chức vụ. Tại sao không thấy đấy như là một người đàn ông nhỏ bé, cũng có yêu, có ghét, có thù, có đúng, có sai, như bao người khác? Chưa kể còn có gia đình. Tôi kiên quyết cho rằng trong việc này một số tờ báo đã không điều chỉnh, họ vội vàng khai thác số phận (vốn không phải bi kịch) của một cá nhân một cách tham lam.
Phóng viên: Anh Bò ạ, nếu như một bác nông dân tuyên bố từ chức thì chả ai nói làm gì. Đây là một vị trí lớn. Làm cao, khi xảy ra điều gì thì phải chịu áp lực cao, đấy cũng là lẽ thông thường thôi mà anh.
Bò: Cái thứ lý lẽ thông thường ấy nên dùng cho… Bò thôi nhà báo ạ. Vì Bò không đi học, và Bò không được giáo dục về tế nhị, về nhân đạo và về sự nhân bản trong việc đưa tin, vốn là những phẩm chất cao quý của một người làm báo lớn. Chừng nào còn vội vã và a dua chạy theo hiện tượng, chừng đó còn khổ nhiều người và nhiều… Bò!
Lê Thị Liên Hoan