"Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này"
Làm tí nhạc dance



Xin Cho Anh Yêu

Sáng tác: Vũ Quốc Việt
Ca sĩ: Hà Kim Ngọc

Hãy nói thầm với cơn mưa
Một lời yêu em ta đợi chờ năm tháng
Hãy nói với gió, hãy nhắn với mây
Từ ngày gặp em trái tim ta u hoài.


Mãi bước, bước, bước trên phố đông người
Vai em run lên khi nắng Xuân về
Mãi nhớ mãi nhớ ánh mắt nhung huyền
Nụ cười như hoa tóc mai yêu kiều.


Xin cho anh yêu những lúc em cười
Xin trong cơn mơ anh gọi thầm tên em
Sao rơi trong đêm khi trái tim này
Lần đầu gặp em ngỡ yêu em rồi.


Xin cho anh yêu đôi mắt nhung huyền
Sao rơi trong đêm khi người bên tôi
Xin cho anh yêu giây phút bên em
Một lần yêu em mãi yêu muôn đời.









Thursday July 31, 2008 - 10:47am (ICT)



Một con chuột nhìn qua vết nứt của vách tường và trông thấy một bác nông dân cùng với vợ đang mở một chiếc hộp. “Hẳn là có đồ ăn gì trong hộp?” - con chuột tự hỏi. Nhưng liền sau đó, nó hốt hoảng khi phát hiện ra đó lại là cái bẫy chuột.

Chuột ta bèn chạy ra ngoài vườn và la làng la xóm: “Có một cái bẫy chuột trong nhà! Có một cái bẫy chuột trong nhà!”

Chị Gà cục ta cục tác chạy tới: “Chú Chuột này, đây quả thật là mối lo ngại ghê gớm đối với chú, nhưng nó chẳng phiền hà gì tới tôi. Tôi không thể nào bị vướng một cái bẫy chuột”.

Chuột quay sang nói với anh Heo với vẻ lo lắng: “Anh ơi, trong nhà ta có một cái bẫy chuột”. Anh Heo tỏ ra thông cảm: “Tôi rất lấy làm tiếc, cậu em ạ! Tôi chẳng thể làm gì được, nhưng tôi sẽ cầu nguyện cho chú”.

Chuột chạy tới bác Bò tỉ tê. Bác bò một lần nữa trấn an: “Tôi rất hiểu cậu, nhưng tôi cũng chẳng thể giúp gì”. Chuột lẳng lặng bỏ vào nhà. Lòng buổn thỉu buồn thiu, một mình nhìn cái bẫy chuột tàn nhẫn của bác nông dân.

Thế rồi đêm nọ, một tiếng động vang lên trong ngôi nhà, hệt như tiếng sập bẫy. Vợ của bác nông dân vội chạy tới để xem có bắt được con chuột nào không. Trong đêm tối, loạng cha loạng choạng, bà đã bị một con rắn độc cắn khi bà mon men tới cái bẫy vốn đang sập vào đuôi con rắn.

Bác nông dân nhanh chóng đưa vợ vào trạm xá. Khi về nhà, bà đã bị sốt. Mọi người đều biết rằng ăn cháo có thể làm giảm cơn sốt; vì thế bác nông dân đã chạy ra vườn bắt chị Gà mần thịt để làm cháo nấu cho vợ.

Thế nhưng bệnh tình của vợ ông vẫn không thuyên giảm. Bạn bè và xóm giềng đã tới thăm hỏi. Để thết đãi họ, ông đã mần thịt anh Heo.

Sau nhiều ngày chống chọi với cơn bệnh, vợ ông đã qua đời. Nhiều người đến lễ tang và vì thế bác nông dân đã mổ thịt bác Bò để có đủ thức ăn đãi khách, những người đã rất quan tâm tới gia đình ông.

Lần sau, một khi bạn nghe thấy ai đó đang gặp khó khăn dù chuyện đó chẳng "ăn nhập" gì tới bạn, hãy nhớ rằng khi một người trong chúng ta gặp nguy khốn, nghĩa là tất cả chúng ta đều có nguy cơ gặp nguy khốn. Tất cả chúng ta đều đồng hành trên chuyến hành trình mang tên Cuộc Đời. Hãy để mắt tới mọi người và luôn động viên và cùng họ vượt qua cơn khốn khó.


Từng là “ngôi sao” của Google, các nhân viên cũ của hãng này vừa ra mắt dịch vụ mang tên Cuil nhằm thách thức với công cụ Google nổi tiếng. Tuy nhiên thay đổi thói quen lướt web của người dùng là khó khăn đang đè nặng lên những con người táo bạo này.

Công ty Cuil (phát âm giống như “cool”) đã khai trương dịch vụ tìm kiếm tại địa chỉ

Cuil được quảng cáo có thể chỉ mục nhanh hơn và rẻ hơn và bộ cơ sở dữ liệu “khổng lồ” hơn Google.

Đối thủ đáng gờm của Google cho biết Cuil không đơn thuần sử dụng công nghệ cho kết quả tìm kiếm liệt kê các trang web liên quan mà còn phân tích ngữ cảnh của từng trang web cùng những khái niệm chính trong từng lệnh search của người dùng.

Danny Sullivan một nhà phân tích các công cụ tìm kiếm web và là tổng biên tập trang Search Engine Land, nhận xét, Cuil có thể sẽ làm hài lòng những người dùng phàn nàn về Google do Google quá “ôm đồm” quá nhiều kết quả tìm kiếm và kết quả tập trung vào những website phổ biến, chẳng hạn như wikipedia.

Những người phát triển Cuil còn quảng cáo, công cụ tìm kiếm này nhận thức tốt về vấn đề bảo mật. Dịch vụ tập trung vào nội dung các trang web chứ không thiên về số lượng click vào trang. Cuil cũng không lưu thông tin cá nhân của người dùng trong lịch sử search.

“Thời gian sẽ là câu trả lời cho những đối thủ thách thức với Google”, ông Sullivan ví von. “Đánh bại Google là một nhiệm vụ khó khăn, chính Microsoft đã quá hiểu điều này”.

Công ty Cuil do một nhóm kỹ sư tiên phong trong lĩnh vực tìm kiếm, trong đó có Costello - là người xây dựng nên công cụ phân tích web Web Fountain của IBM. Và, có cả bà Anna Patterson – vợ của Costello – từng là kiến trúc sư bộ phận danh mục web khổng lồ TeraGoogle của Google. Patterson còn là người thiết kế hệ thống tìm kiếm cho công ty lưu trữ tài liệu doanh nghiệp toàn cầu Recall – một bộ phận của tập đoàn Brambles (Úc). Công cụ tìm kiếm Cuil còn được sự góp sức của nhân sự trước đây của Google là Russell Power và Louis Monier.


28.Dấu son trên má

Hồi Nguyễn Bính yêu A.T. Một lần sôi nổi Bính hôn lên môi người yêu! A.T con gái tỉnh nhỏ, tỏ vẻ ngây thơ sợ sệt, ngượng ngùng. Bính bèn rút luôn giấy bút làm một bài thơ tặng:

Anh đi chẳng hẹn ngày về,

Chỉ thề ai buộc, tóc thề ai chôn.

Muốn gì? Em muốn gì hơn?

Hôn hoàng nay lại hoàng hôn mai ngày.

Môi khô, tóc liễu, thân gầy,

Anh xa, em kẻ lông mày với ai?

Thơ không làm trọn một bài,

Đàn không gượng gẩy một vài khúc ngâm.

Ông tơ già lắm nên nhầm,

Ai cho xum họp, ai làm chia phôi.

Chẳng thà đừng kết duyên đôi

cho đoàn tụ, để rồi xa nhau.

Tính năm, tính tháng thêm rầu,

Ấy hai con én ngang lầu bay bay...

Bài thơ tiên đoán được những khó khăn khó thành công. Riêng A.T khi nhận ra những chữ đầu câu là “Anh chỉ muốn hôn môi A.T. Đàn ông ai chẳng có tính ấy” thì vừa yêu mến, vừa cảm phục, bèn ôm hôn lại vào má Nguyễn Bínhmột cái. Đôi môi son in dấu đỏ tươi!

Về đến Hà Nội, Nguyễn Bính vẫn còn giữ dấu son trên má ấy. Các bạn thơ như Hồ Tăng ấn, Trúc Sơn, Trần Huyền Trân, Thâm Tâm xúm vào đùa chế. Nguyễn Bính mặc kệ còn tuyên bố:

- Ngày xưa vua Tự Đức còn khóc Bàng Phi, có câu:

Đập cổ kinh ra tìm lấy bóng

Xếp tàn y lại để dành hơi...

Mình không thể có gương mà tìm bóng, không có quần áo cũ để tìm hơi, chỉ có dấu đôi môi son của nàng, còn quý hơn, thì phải giữ gìn trân trọng chứ.

Không biết sẽ giữ bao lâu, nếu không có Vũ Hoàng Chương phê phán:

- Dấu son trên má thì quý cái nỗi gì? Hoặc là cô ta chưa yêu cậu say đắm, hoặc là cô ta quê kiềng quá, không dám hôn môi. Giữ làm gì?

Tuy vậy, Bính cũng không giữ được đến ngày thứ bảy.

Tô Hoài còn kể hi đó đến khổ vì hai anh bạn thơ đó là Vũ Hoàng Chương và Nguyễn Bính. Có lần Tô Hoài đi giữa, hai người khoác tay đi hai bên. Hai chàng thi sĩ đa tình, rượu say chếnh choáng vừa đi vừa ngâm thơ tình oang oang. Vũ Hoàng Chương thì rền rĩ:

Tố của Hoàng ơi! Tố của ta,

Nguyễn Bính thì nghêu ngao:

Ta cười: Bữa ấy mình toan giữ,

Mãi mãi dấu son trên má mình.

Kể cũng là những cuồng sĩ!

29.Thi dịch thơ

Hôm ấy ở toà soạn báo “Tiểu thuyết thứ 5”mọi người đang bàn chuyện dịch thơ chữ Hán. Cao hứng, Nguyễn Bính nói:

- Hôm nay có nhiều bài thơ, nhà dịch, nhà lý luận...Các nhà Hán học uyên thâm cả, ta chơi thi dịch thơ nào? Bây giờ ngài chủ bút chọn bài chữ hán nào đó, tuỳ ý - coi như đặt bài. Chúng ta cùng dịch, ai xong trước, dịch hay, là thắng cuộc. Giải thưởng xin đề nghị ngài chủ bút chi tiền nhuận bút ngay mà thôi.

Mọi người tán thành. Chủ bút Lê Tràng Kiều bèn đọc một bài thơ đường:

“Hoàng mai thời thiết gia gia vũ

Phương thảo trì đường cứ cứ oa

Hữu ước bất lai hoa dạ bán

Nhàn soa kì tử lạc đăng hoa”.

Ai nấy cầm bút, gạch gạch xoá xoá, Nguyễn Bính không cầm bút nháp gì cả, một lúc đọc luôn:

Ao hồ tiếng ếch gần xa,

Cỏ thơm ngào ngạt, ngoài nhà mưa rơi.

Nửa đêm cái hẹn sai rồi.

Quân cờ gỗ nhảm làm rơi hoa đèn.

Ai cũng công nhận hai câu kết thật là sáng tạo, “mô - đéc”. Lê Tràng Kiều lại đọc một bài thơ Tình sử:

Nhật ấp Xuân giao vạn lý tình,

Đoạn trường phương thảo, đoạn trường oanh.

Nguyệt tương song lệ đồ vi vũ,

Minh nhật lưu quan bất xuất thành.

Một lúc sau, Nguyễn Bính lại dịch xong trước tiên:

Một chén tiễn đưa tình vạn lý,

Oanh buồn rầu rĩ, cỏ buồn phai.

Mong đem lệ tưới thành mưa lớn.

Ngăn bước đường anh buổi sớm mai.

Lê Tràng Kiều “nháy nháy mắt” với Nguyệt Hồ cười khà khà:

- Thôi, bây giờ đọc một bài ngũ ngôn, dễ hơn cho các dịch giả nhé:

Đoạn đạm trường giang thuỷ

Du du tống khách tình,

Lạc hoa tương dữ hận

Đáo địa nhất vô thanh.

Lần này học sĩ Nguyệt Hồ lên tiếng đầu tiên:

Trường giang nước chảy dầu dầu,

Tiễn đưa một chén dạ sầu đôi nơi,

Nhìn theo hoa rụng tơi bời,

Hoa kia cũng hận cho người biệt ly.

Nguyễn Bính khen:

- Hoạ sĩ nhanh nhỉ. Song còn câu cuối bỏ không dịch ư? Bài của tôi dịch thế này:

Nước Trường giang êm trôi,

Tiễn khách lòng bồi hồi.

Hoa buồn rơi thật nhẹ,

Hoa cũng hận cho người.

Chủ bút cười:

- Được, được, khá cả. Chấp nhận cả hai bài. Sau đây mình đọc một số bài thơ cổ sử, các vị đã dịch xem sao?

Nga nga lưỡng nga nga

Ngưỡng diện hướng thiên nha

Bạch mao phô lục thuỷ,

Hồng trạo mãi thanh ba.

Bài này Nguyệt Hồ lại dịch xong trước:

Hai con nga lội giữa dòng,

Nghiêng nghiêng đôi mỏ, ngừng trông chân giời

Bồng bềnh mặt sóng chơi vơi,

Mỏ vàng, chân đỏ, lông phơi trắng ngần. (1)

Mọi người vỗ tay khen hoạ sĩ, Nguyễn Bính ngạc nhiên, vò đầu bứt tai bực bội nói:

- Được rồi, bây giờ được câu nào mình xào luôn câu đấy!

Lê Trang Kiều cười, vừa a ê đọc một câu:

Cánh hoa, nhiên viễn, thiên nhai cạn

(Cách nhau có 1 luống hoa mà sao cảm thấy em xa xôi thế, chân trời còn gần hơn.)

Chưa đọc kịp cả bài. Nguyễn Bính đã dịch luôn:

Anh nhìn qua cụm hoàng hoa,

Chân trời gần gũi, em xa vạn nghìn.

Mọi người phá lên cười, nhưng đều chịu Bính dịch nhanh và hay. Chủ bút sợ giả nhuận bút nhiều quá, nên cuộc thi dịch thơ dừng tạm ở đấy.

__________________

(1) Sau Lê Tràng Kiều tiết lộ sợ Bính giật hết giải ông đã đọc hai bài sau mà ông biết Nguyệt Hồ đã dịch từ trước, cốt chơi khăm Nguyễn Bính.

30. Đề thơ “Nhà lăn Mê ly”

Vào những năm 1940 hoạ sĩ Hoàng Lập Ngôn (nhiều người đùa ông là Hoàng “lập dị”), nổi máu giang hồ, ông đóng một cỗ xe ngựa như một cái nhà lưu động. Ông dùng để đi khắp Bắc Trung Nam, sang cả Lào và Cao Miên, trên chiếc xe đó. Đi đến đâu thì kiếm ăn bằng nghề vẽ. Kí hiệu của ông là chiếc bánh xe lăn và ông đặt chiếc xe ngựa là “Nhà lăn Mê-ly”(1)

Sáng hôm mùng 8 tháng 2 năm 1942, “Nhà lăn Mê-ly” xuất phát từ đền bà Kiệu – Hà Nội. Ra tiễn có nhiều bạn bè, nhà văn, nhà báo: Lê Tràng Kiều, Trương Tửu, Nguyễn Bính...

Nhiều người có tặng phẩm cho chủ nhân như một tập giấy, một hộp màu, cây bút vẽ, có người tặng một chai nước mắm, một gói thuốc khô...

Nguyễn Bính bèn bảo Hoàng Lập Ngôn đưa cho hộp mực mầu và bút vẽ, rồi viết lên thành xe 4 câu thơ tặng:

Đây chiếc “xe lăn” của bốn trời

Trăng vàng chan chứa, gió mê tơi.

Hôm nay xe lại lên đường nhỉ,

Thoả máu giang hồ mặc sức chơi.

Bốn câu thơ trình bày như đôi câu đối trang trí trong xe. Lê Trang Kiều nhận xét:

- Mấy chữ “trăng, gió, máu, chơi” được tô đậm, tác giả có ngụ ý gì đây?

Hoàng Lập Ngôn cười:

- Nó xỏ tôi “Máu trăng gió” chứ gì...

Sau này, Hoàng Lập Ngôn kể lại với hoạ sĩ Nguyệt Hồ là đã ngâm nga suốt dọc đường “trường chinh” 4 câu thơ này rất thú vị.

31. Bài thơ bị sái

Cuối năm 1965, năm kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du – Nguyễn Bính làm việc sôi nổi, hào hứng đặc biệt. Anh thuộc truyện Kiều từ đầu chí cuối – vốn coi cụ Tiên Điền như một vị tổ sư – nên chuẩn bị việc kỷ niệm này, Nguyễn Bính viết không mỏi, anh viết Bài ca quê hương, ca ngợi đất nước mình có nền nhạc, nền thơ, có kho tàng văn học dân gian đồ sộ. Và "Có Nguyễn Du và có một truyện Kiều". Phải chỉ "có một truyện Kiều" mà thôi.

Chuẩn bị số báo Tết Nguyên Đán năm Bính Ngọ ấy, chúng tôi cũng dành rất nhiều bài về Nguyễn Du, từ chính luận đến các bài sáng tác, các chuyện giai thoại về Nguyễn Du và Kiều. Các hôm duyệt bài báo Tết, anh em cảm thấy như Tết đã đến rồi. Nguyễn Bính khỏe, tươi, tay thủ một tập giấy mỏng. Anh khoe: Trong một đêm, đã viết được một bài tập Kiều, vịnh cụ Tiên Điền. Anh không cho ai xem chờ lúc ra hội đồng đủ mặt mới trịnh trọng giở trang giấy viết công phu – chữ đẹp như xếp, rồi hắng giọng ngâm nga.

Kính tặng cụ Nguyễn Du và truyện Kiều

Cảo thơm lần giở trước đèn

Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa

Trăm năm trong cõi người ta

Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau

Khen tài nhả ngọc phun châu

Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình

Mấy lời ký chú đinh ninh

Rằng tài nên trọng mà tình nên thương

Khen rằng giá đáng Thịnh Đường

Thì treo giải nhất, chi nhường cho ai

Gẫm câu người ấy, báu này

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào

Nặng vì chút nghĩa xưa sau

Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay

Thương vui bởi tại lòng này

Tan sương đầu ngõ, vén mây cuối trời

Lòng thơ lai láng bồi hồi

Tưởng người nên lại thấy người về đây...

Cả hội đồng duyệt bài số báo tết hôm ấy cùng lặng đi. Bài tập Kiều thật hay. Nhưng nghe ra...đây tuy đề tặng cụ Tiên Điền, mà sao cứ như tâm sự của Nguyễn Bính, tổng kết cái cuộc đời thơ tài hoa, long đong lận đận và những câu sau cùng, sao mà nó sái quá. Một lời là một vận vào, khó nghe.

Nguyễn Bính cười trừ:

- Các ông mê tín! Cứ hay là được rồi.Tôi xin nộp bài này. Một câu một chữ không sửa.

Câu chuyện qua đi. Những ngày sắp Tết mưa dầm và làm việc bận rộn. Mọi người gắng làm xong việc, về gia đình vui tết với vợ con, cái tết chống Mỹ, nhưng có đủ bánh chưng giò nạc. Nguyễn Bính có chương trình khác. Cái máu giang hồ vặt lại nổi lên. Anh muốn tạo ra một xuân tha hương nữa. Tha hương đây không phải là nơi cách trở ngàn dặm, mà là một làng ở ngay huyện Lý Nhân, ở đây anh có một người bạn yêu thơ, nhà làm thuốc đông y. Hai vợ chồng ngỏ ý mời từ lâu. Nguyễn Bính chọn ngày giáp tết. Anh xắn cao quần, pha đường bùn đất, lặn lội tới chơi. Chủ nhà cảm động đến rơi nước mắt. Cái tết "tha hương" này, hẳn là ấm cúng, tình bạn, tình người. Ngờ đâu...

Sáng 30 tết. Nguyễn Bính ra vườn chơi. Một luồng gió lạnh. Anh rùng mình, thổ huyết rồi ngất xỉu. Gia đình chủ nhà hết lòng chạy chữa. Nhưng không kịp nữa rồi.

Tân Thanh đáo để, vị thùy hương

(Tân Thanh sau hết, ngậm ngùi vì ai...)

Nhà văn Chu Lai thuật lại: “Mồng sáu tháng giêng ta, tôi lên Hội Nhà văn thông báo về việc anh Bính mất. Gặp Tô Hoài, cùng ngậm ngùi nói chuyện về người bạn mới mất. Sau đó, tôi tìm đến nhà Trần Lê Văn. Nghe tin Bính mất, Trần Lê Văn tròn xoe đôi mắt kinh ngạc.

- Bính chết thật ư? Bao giờ?

- Ba mươi Tết, trước giao thừa.

Trần Lê Văn bỗng xỉu mặt, đấm vào đùi đánh bịch:

- Biết mà! Biết mà. Chết trước mồng một – đã lường thấy từ bao giờ rồi.

Tôi gặng:

- Sao anh nói vậy?

Trần Lê Văn nói như gắt:

- Ô kìa! "Năm mới tháng giêng mồng một Tết. Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân". Nó để mùa xuân nguyên vẹn cho người. Nó đi mà.”

Tôi sực nhớ bài tập Kiều "Lời lời lệ sa máu rỏ" đăng trân trọng trong số báo Tết. Ôi! Thương quá. Chẳng lẽ trong thơ có quỷ, có ma thật chăng?

32. Những người yêu thơ thiết thực

Hồi Nguyễn Bính theo Ty văn hoá Nam Hà sơ tán về xã Nhân Nghĩa, nhân dân địa phương biết là nhà thơ Nguyễn Bính ở đây nên hay đến tiếp xúc và lấy làm thú vị là được quen biết nhà thơ của quê hương.

Có ông B là thợ cắt tóc, không bao giờ lấy tiền cắt tóc nhà thơ. Đáp lại, Nguyễn Bính thường cắt những bài thơ đăng báo của mình và cả những bài chưa đăng báo tặng ông. Ông B dán ngay lên vách cửa hàng. Hiệu cắt tóc của ông B từ đó rất đông khách, có lẽ một phần khách đến chỉ cốt mong được đọc thơ của Nguyễn Bính. Âu cũng là sự “có đi có lại”một cách ngẫu nhiên.

Cô lái đò sông châu là cô T cũng vậy, không bao giờ lấy tiền đò thi sĩ. Có lần Nguyễn Bính hỏi cô đã đọc bài thơ “Cô lái đò” của ông chưa. Cô nói đọc rồi và đọc luôn cho ông nghe. Một hôm, cô thú thực với ông là cô cũng có một mối tình gần như thế, nhưng đã 5 năm anh ấy đi bộ đội chưa về mà cô chưa hề “lỗi ước với tình quân”! Nguyễn Bính cảm động có làm một bài thơ mới “Cô lái đò ngày nay” tặng cô (tiếc là chưa sưu tầm được). Khi nghe tin Nguyễn Bính mất cô đã khóc nức nở và nói với Chu Văn, nguyên trưởng Ty văn hóa Nam Hà:

- Giá chết thay được thì cháu xin tự nguyện chết thay để bác ấy sống, bác ấy làm thơ.

Bà chủ nhà mà Nguyễn Bính ở nhà nhờ, nhà cũng nghèo thôi, nhưng trong vườn mùa nào thức ấy, khi trái bưởi, lúc tấm mía, lúc củ khoai luôn trân trọng mời Nguyễn Bính ăn, bà nói là “cây nhà lá vườn”, gọi là “bồi dưỡng” nhà thơ… Khi Nguyễn Bính mất bà đã thắp hương cúng 1 tuần cho thi sĩ…

Người nghệ sĩ chân chính nào chẳng mong muốn có những độc giả chân tình như thế.


15. Chơi chữ C

Nữ sĩ N. hồi đầu cách mạng tháng Tám năm 1945 có cảm tình với một cán bộ cách mạng đã khá cao tuổi (gấp đôi tuổi nữ sĩ) nên anh em thường đùa chế. Một lần đồng chí cán bộ kia bị ốm, nữ sĩ mua chục cam đến thăm, chẳng hiểu vì sao lại bị từ chối. Từ đó nữ sĩ cắt đứt quan hê.

Năm 1945 tập kết ra Bắc, Nguyễn Bính đến thăm nữ sĩ và được nữ sĩ mời ăn cam. Nhớ lại chuyện xưa cũ, khi về Nguyễn Bính giấu để xuống dưới đĩa cam 2 câu thơ đùa toàn phụ âm C:

Cô cầm cam, cụ cầm cờ, cô cứ cỳ cèo co céo cụ

Cụ càng cao, cô càng cáu, cô càng cay cú cái con cò!

Khi đọc, nữ sĩ giận lắm và từ đó cũng cắt đứt quan hệ với Nguyễn Bính. Thật khổ thay vì cái tội hay chữ chơi chữ. Bạn bè biết chuyện cũng đặt một câu đùa thêm:

Chơi chữ cam, chơi chữ chua cay, câu chuyện cũ càng, còn cáu kỉnh. Cô cấm cửa, cuối cùng cũng cắt.


16. Lại chơi chữ

Ông giáo H. rất thích thơ Nguyễn Bính. Ông đã cớ vợ nhưng có yêu một người cô đầu hát tên là Duyên. Cô này cũng rất sính thơ. Ông giáo là người cầm trống chầu giỏi và làm thơ cũng khá, ông thường viết bài cho cô Duyên hát. Một hôm ông giáo H mời Nguyễn Bính và Nguyệt Hồ đi một chầu hát ả đào ở nhà cô Duyên phố On Rợp. Sau khi say sưa, bên bàn đèn ông giáo H đề nghị làm thơ liền ngâm chơi.

Nguyệt Hồ lớn tuổi hơn cả, đọc mở đầu một câu chơi chữ thật khó:

Dặn dò dì gió giữ gìn Duyên (1)

Nguyễn Bính đọc ngay:

Hứa hẹn hàn huyên hóa hão huyền

Cô Duyên nghĩ một lúc cũng đọc:

Lầm lỡ, lơ là lòng lạnh lắm!

Ông giáo H làm câu kết:

Tâm tình tơ tưởng tới toà tiên.

Nguyễn Bính cười:

- Câu kết có tâm trạng vơ vào. Nhưng tôi nghĩ giá đổi vài chữ thì khoái tai hơn, có thể là:

Tòm tem toan tính tới tòa tiên

Mọi người đều cười, đề nghị cô Duyên hát ngâm lại. Ông giáo đánh trống trầu, giơ cao tay một cách thích thú.

______________________

(1) “Dì gió” dịch theo chữ Hán: Phong-di, còn có hàm ý nữ khách phong tình.


17. Xuất khẩu thành thơ

Một lần Nguyệt Hồ cùng Nguyễn Bính đến chơi nhà Việt Quyên. Chủ nhà đang câu cá ngoài ao. Nguyễn Bính bảo Nguyệt Hồ đứng lại để mình đọc cho Việt Quyên giật mình. Rồi Bính sẽ đi đến sau lưng Nguyệt Hồ quát to lên 2 câu thơ:

Đành nhẽ làng văn chìm tiếng xuống

Chỉ cần mặt nước nổi tăm lên.

Việt Quyên giật mình vì khi Nguyễn Bính đọc hai chữ đầu “Đành nhẽ”, Bính đọc to như quát, chân dậm bành bạch, và khi đọc đến chữ “Chỉ cần”, Bính sấn ra trước mặt, nhấc cần câu lên và đùa:

-“Chỉ cần” là đình chỉ cái cần câu này lại, vào nhà tiếp khách, nghe chưa?

Nguyệt Hồ và Việt Quyên phải khen tài xuất khẩu thành thơ của Nguyễn Bính. Ứng khẩu đùa bạn, mà chữ nghĩa đối nhau chan chát, lại hợp cảnh, hợp người như thế thật là tài!


18. Xướng họa

Ông Song Ly, tên thật là Xương Lợi do Nguyễn Bính đùa đặt là Song Ly cho có vẻ Tàu, vì ông này có dáng giống chú khách. Nhà ông ở xã Mĩ Tân, ngoại thành Nam Định. Ông song Ly rất thích thơ Nguyễn Bính và hay xướng hoạ, tuy thơ ông chưa hay.

Hàng tuần, Nguyễn Bính cùng các bạn ra nhà ông Ly chơi, nhà ông rất mát, vườn rộng và nhất là lần nào ông Ly cũng làm món gì đánh chén. Lần này, Nguyễn Bính và Nguyệt Hồ ra chơinhà chẳng còn gì. Ông Ly cùng hai nghệ sĩ ta đi lục chạn bát, gầm giường xem có còn gì ăn tạm. May sao, ở cái bị treo lủng lẳng dưới bếp, còn mấy củ khoai tây và ổ gà đẻ có dăm quả trứng! Thế là ba vị, kẻ gọt khoai, người nhóm bếp làm một tiệc cò con...

Rượu ngà ngà, ông Ly lại bắt Bính làm thơ để minh hoạ. Nể lời, Bính nói:

- Thôi được:

Ăn khoai thì lấy vần khoai

Song Ly ta gọi Song Lai cho vần

nhé!

Và Bính đọc thơ luôn:

Có dăm quả trứng, nửa cân khoai

Đánh chén cò con, giở miệng ngài

Bạn đến chơi nhà trơ củ lẳng

Thú gì thơ thẩn, hở ông Lai?

Nghĩ một lúc ông Song Ly hoạ lại:

Những năm hào trứng, bẩy hào khoai

Ít đủ, nhiều no, hỡi các ngài?

Tri kỉ, tri âm, thơ xướng hoạ

Giàu sang, chữ nghĩa, thử vài lai?

Nguyễn Bính cười:

- A, giọng thơ thách thức nhau lắm nhỉ? Đã vậy nghe tôi đọc đây.

Và Bính đọc luôn một thôi ba bài, nhằm dùng hết chữ vần cho khó hoạ:

Nghe thơ chủ trại bứ hơn khoai

Có khổ tai không hả các ngài

Mà dám ti toe đòi xướng hoạ

Ngôn từ lủng củng...lải lài lai...

Những bao tiền trứng, mấy tiền khoai,

Có đắt hay không, hỡi các ngài?

Cái lão Song Ly cay nghiệt quá

Đồng cân chẳng bớt một vài lai.

Ra về chốc nữa nắng xiên khoai

Mặt ủ, mày chau, xạm nét ngài

Râu tóc bù xù trông gớm chết

Phen này phải đến hiệu Xuân Lai (hiệu cắt tóc)

Bính cười giục:

- Nào, hoạ đi chứ, ông chủ?

Quả là ông chủ bí thật. Nguyệt Hồ bèn hoạ đỡ bạn:

Lâu nay cơm nước độn toàn khoai

Lại kém đồ ăn...ngái ngải ngài

Không khéo dạ dày queo quát lại

Mà thân hình cũng oặt – xà – lai (gày còm)

Bính cười:

- Khá lắm, còn phông không?

Nguyệt Hồ lại đọc:

Đây không cần trứng chẳng cần khoai

Xướng hoạ thơ chơi với các ngài

Nếu bí thì đây lên Thượng Lõi

Vui trò gà trọi với ông Lai

Nghe đâu ba người còn lai rai đến chiều và còn hoạ vần đến gần chục bài nữa, nhưng sau say tít, cũng nhàm.


19. Tri âm của nhà thơ

Đó là ông Trần Quốc Lai ở Thượng Lỗi, ngoại thành Nam Định. Nguyễn Bính gọi ông bằng nhiều tên đùa cợt. Trước ông làm ở toà án thời Pháp, tiếng Tây như gió, Bính gọi ông là "thầy phán Tây". Ông mê gà chọi, nhà ông là một sới gà chọi chơi đã mấy đời, các giới nghệ sĩ thuật tứ chiếng khắp Trung Nam Bắc về đây cũng đông (gà chọi cũng là một môn nghệ thuật) Bính gọi ông là “nghệ sĩ gà”. Sinh thời Nguyễn Bính coi ông Lai như là một “tiểu Mạnh Thường Quân” của mình. Những khi thất bại trong trường đời, trong tình ái, đói rét, cô đơn... Nguyễn Bính lại về nhà ông Lai nghỉ ngơi, tâm sự. Nhiều bài thơ (chưa đăng báo), nhiều câu chuyện, nhiều bút tích của Nguyễn Bính chỉ một ông Lai biết thôi.

Cái đặc biệt là cho đến nay (1989), ông Lai đã già lắm, 85 tuổi, mắt đã loà, đi phải chống gậy, tính tình hơi “ lẩn thẩn”, nói trước quên sau, nhưng riêng thơ Nguyễn Bính ông vẫn thuộc lầu lầu. Hỏi đến bài nào, ông đọc từ đầu chí cuối, không lẫn. Ông có những nhận xét về thơ Nguyễn Bính khá tinh tế. Ông nói:

- Thơ Nguyễn Bính có cái lạ, tách riêng ra một hai câu có thể đứng được như một bài thơ hoàn chỉnh. Ví dụ:

Gió mưa là bệnh của trời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng...

Dẫu rằng một cánh, cũng hoa,

Dẫu rằng một nửa, cũng là trái tim.

Và ông đặt tên đầu bài cho các câu thơ ấy. Ví như bài” Tìm nàng” có các câu sau:

Dừng chân trước cửa nhà nàng

Thấy hoa vàng với bướm vàng bên nhau.

Tìm nàng chẳng thấy nàng đâu,

Lá rơi lả tả bên lầu như mưa...

Hoặc ông đặt đầu bài “Tuổi son” cho mấy câu dưới đây:

Thế là tàn một giấc mơ,

Thế là cả một bài thơ não nùng.

Tuổi son má đỏ môi hồng,

Bước chân về đến nhà chồng là thôi!

Theo ông Lai, Thơ Nguyễn Bính rất nhiều đạt đến toàn bích như: Mưa xuân, Thời trước, Tương tư, Viếng hồn trinh nữ, Oan nghiệt, Xóm ngự viên, Truyện cổ tích, Những bóng người trên sân ga, Cô hái mơ, Cô lái đò... Kẻ đánh giá thơ thì mỗi người một khẩu vị chủ quan, nhưng xem ra sự thẩm thơ của ông về Nguyễn Bính cũng thật xác đáng.

Trước đây rất lâu (hơn 20 năm) trước khi người ta tranh nhau sưu tầm, tuyển chọn, tái bản đi tái bản lại thơ Nguyễn Bính, lúc Bính đang khó khăn ba đào, ông Lai đã khẳng định trước các bạn như Nguyệt Hồ, Phong Giao, Trần Khuê, Việt Quyên:

- Nguyễn Bính rất lớn, thế nào rồi nhân dân cũng đánh giá lại, đúng giá trị của thơ Bính…

Quả nhiên, nay đã trở thành sự thật,

Thiển nghĩ, chuyện này nào khác chuyện Bá Nha với Tử Kì thời xưa?


20. Làm thơ mua được xe đạp cung cấp

Hồi kháng chiến chống Mĩ, Ty Văn hoá Nam Hà sơ tán về xã Nhân Nghĩa, cách thành phố gần 20 cây số, Nguyễn Bính lúc ấy công tác ở ty văn hoá nên cũng đi theo, nhưng gia đình vợ con cũng phải bám sát vòng đai ngoại thành, đông dân sơ tán để buôn bán kiếm ăn, ở xã Nhân Hậu. Việc đi lại rất vất vả, Nguyễn Bính thường nói với anh em mong có cái xe đạp để đi. Nhưng đã nhiều đợt cơ quan phân phối xe đạp giá rẻ mà nhà thơ chưa được.

Một chiều, Nguyễn Bính cùng một số anh em phòng Sáng Tác ngồi chơi mát trên bờ sông Châu, có cả thủ trưởng Ty Văn hoá cũng ngồi đó cả. Một ông bạn đố Bính:

- Ngày xưa Tào Thực, 7 bước thành thơ, nay để 7 phút anh có thể làm được một bài thơ hay không? Đầu bài là " Chồng ở Nhân Nghĩa, vợ ở Nhân Hậu".

Bính nói:

- Có hai thủ trưởng và anh em đây, tôi xin đọc luôn thơ, chứ cần gì đến 7 phút. - Rồi Bính đọc:

Chồng thì Nhân Nghĩa, vợ Nhân Hậu

Mười lăm cây số, đường độc đạo!

Không tiền, trời nắng lại không xe,

Khổ muốn kêu trời, trời có thấu?

Khi đọc đến câu cuối, Bính gật gật về phía hai thủ trưởng, như nói với “hai ông Trời”: “Khổ muốn kêu trời trời có thấu?”

Anh bạn đố Bính nói:

- Câu đầu chơi chữ thật hay, đổi một chữ “thì” như lời tự bạch: “Vợ chồng tôi nhân nghĩa, nhân hậu lắm, nên nghèo, không xe…”. Nhưng tôi nghĩ đã “đạo” lại còn “đường” (đường độc đạo) sợ có thừa chữ không?

Bính hỏi:

- Ông bạn ơi, chúng ta đang ngồi ở sông nào đây?

- Sông Châu Giang.

- À, sông Châu Giang cũng như sông Hồng Hà, thì cũng như “đường độc đạo”, chẳng nhẽ gọi là “đường độc” ư?

Mọi người đều cười. Và hai thủ trưởng cơ quan cũng nháy mắt nhau, xem chừng đã “thấu”. Mấy hôm sau, Nguyễn Bính được cấp phiếu mua một xe đạp giá rẻ thật!


21.Liên ngâm đả Tây

Nguyễn Vĩ, chủ bút báo Pháp – Việt, cũng như các chủ bút báo khác, thường tìm mọi cách tranh thủ tên R.Cơ-ray-sắc (Renes Craysac).Chánh văn phòng Kiểm duyệt sở mật thám Hà Nội. Tên này là một tên cáo già thực dân, giỏi chữ Hán, thạo tiếng Việt, ăn cả thịt chó mắm tôm và cá gỏi…

Một hôm Nguyễn Vĩ mời được Cray-sắc đi hút thuốc phiện ở Khâm Thiên, có Nguyệt Hồ và Nguyễn Bính tháp tùng.

Khi đã say sưa, nằm bên bàn đèn, thấy trên đèn dầu lạc có 4 chữ hán, Cray-sắc đọc: “Phi yến thu lâm” (Rừng thu yến bay), rồi hắn dịch nhại, giọng Tấy lơ lớ, thành: “Phiện thú lắm”. Và hắn đề nghị liên ngâm một bài thơ với tiêu đề ấy.

Nguyễn Vĩ ngẫm nghĩ một lúc rồi đọc

Phi Yến thu lâm lắm cái hay!

Nguyễn Bính đáp:

Nằm trên giường như nằm trên mây.

Cray-sắc cười nói:

- Moa ghép một câu tiếng Pháp, song chắc người An Nam ai cũng hiểu:

Uyn, đơ ,troa, cát, ken-cờ píp

Mọi người khen được. Và Nguyệt Hồ đọc câu kết khá giật gân:

Đánh đổ người Nam đánh đổ Tây!

Cray-sắc trợn mắt:

- Nguyệt Hồ có tư tưởng gớm nhỉ!

Nguyệt Hồ từ tốn:

- Bẩm ngài nghĩ lại xem, có đúng không Ngài và chúng tôi đổ vì nó cả.

Nguyễn Vĩ đỡ thêm:

- Thôi, xin ngài bỏ quá, hoạ sĩ say, và hoạ sĩ bất đắc dĩ phải làm thơ mà…

Sau Cray-sắc cũng cho qua. Rồi mọi người đi vào tán mãi câu thơ hay mỗi vẻ như thế nào.

- Câu đầu “lắm cái hay” là những cái hay gì? Người ta liên tưởng đến câu Kiều:

Ở trong còn lắm điều hay,

Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung...

- Câu thơ Nguyễn Bính thì cố tình phá luật, dùng toàn thanh bằng, lâng lâng bay bổng, đúng đúng là cái đi mây về gió của thuốc phiện...

- Câu 3 không thể nhầm là của ông Tây làm thơ An Nam. Tây cũng hiểu mà ta cũng hiểu.

Còn câu kết không ai dám bình, nhưng chính Cray-sắc cũng công nhận là rất hay! (Très bon!).

22.Ta là người Nam

Hồi trước cách mạng tháng Tám, một lần Nguyễn Bính được giải nhất cuộc thi thơ của một tờ báo lớn ở trong Nam. Ông chủ bút bảo Bính chuẩn bị phát biểu cảm tưởng bằng tiếng Pháp cho sang trọng, vì hôm đó sẽ có nhiều quan chức người Pháp đến tham dự.

Hoàng Tấn, bạn thân với Nguyễn Bính đi mượn cho Bính một bộ com lê thật sang và soạn sẵn một bài tiếng Pháp cho Bính thật chu đáo. Bính mặc quần áo thử và đứng trước gương tập diễn thuyết cho Bính nghe cẩn thận.

Đến buổi lễ trao giải, quả là có rất đông người Pháp và vợ chồng quan đốc lý cũng đến dự rất long trọng. Không biết nghĩ sao, lúc lên phát biểu Bính nói toàn tiếng Việt. Chủ báo cuống cuồng lên dịch cho các quan Tây nghe... Rồi viên đốc lý lên trao giải thưởng cho Nguyễn Bính, vợ tên đốc lý cũng lên tặng hoa và ôm hôn tác giả... Đến khi bắt tay Bính cũng nói:

- Cảm ơn ông! – Chứ không nói tiếng Pháp thông thường: “Méc-xi mơ-xi-ơ”.

Khi ra về Hoàng Tấn hỏi Bính:

- Sao ở nhà thì cậu nói tiếng Tây cho ta nghe mà hôm nay cậu lại nói tiếng Ta cho người Tây nghe thế?

Bính nói:

- Đến lúc ấy mình nghĩ ta là người Nam cơ mà?

Hoàng Tấn im lặng, nắm tay bạn đầy cảm mến.

23.Sông Thương nước chảy đôi dòng

Trong đời Nguyễn Bính có nhiều mối tình song đều “sang ngang lỡ bước” cả! Dạo ấy ở Bắc Giang có “Tao đàn Sông Thương” gồm toàn nữ sĩ khá thu hút bốn phương. Nguyễn Bính cùng Vũ Hoàng Chương... đã về chơi với Bằng Bá Lân quê ở đó, nhân thăm thú Tao Đàn. Sau đó Nguyễn Bính yêu nữ sĩ V.A. Kể ra hai người thật đẹp đôi, cùng là thi sĩ. Cùng khuynh hướng sáng tác về “hương đồng gió nội”...Nhưng thật lạ kỳ, cứ như chuyện Trương Chi vậy. V.A, rất mê thơ Nguyễn Bính và Nguyễn Bính cũng thích thơ V. A. Nhưng hễ gặp nhau là nàng “Mỵ Nương” lại vỡ mộng! Không biết vì Nguyễn Bính nom “chân quê” quá, hay ngược lại nàng sợ chàng thi sĩ kinh thành” Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe” hay vì gì nữa? Cuối cùng mối tình tan vỡ.

Ngồi trên tàu về hà Nội. Nguyễn Bính đọc cho Vũ Hoàng Chương nghe mấy câu tâm sự:

Sông Thương nước chảy đôi dòng

Bao giờ bên đục bên trong hài hoà?

Ngậm ngùi một bước một xa,

Đến đây là... đến đây là... là thôi...

Sau này nghe V.A đi lấy chồng, Nguyễn Bính đã hoàn chỉnh bài thơ trên. Đó là bài:

Cao tay nâng chén rượu hồng,

Mừng em, em sắp lấy chồng xuân nay,

Uống đi em, uống cho say,

Để trong mơ sống những ngày xuân qua.

Thấy tình duyên của đôi ta,

Đến đây là...đến đây là... là thôi!

Em đi dệt mộng cùng người,

Lẻ loi xuân một góc trời, riêng anh.

Sau đó, Nguyễn Bính còn viết cả một tập thơ “Hương- cố nhân” (Hương là bí danh của V.A dùng để viết thư cho Nguyễn Bính) có câu đề từ:

Xây bao nhiêu mộng, thế mà

Đến nay phải gọi người là cố nhân.

24.Giá cái đầu nhà thơ

Hồi ấy cuộc kháng chiến chống Pháp, Nguyễn VănThinh, thủ tướng chính phủ bù nhìn “Nam Kì tự trị” có treo một cái giải:

- Ai đưa được nhà thơ Nguyễn Bính “dinh tê” ( vào thành) theo chính phủ (bù nhìn) sẽ được thưởng một nghìn Đông Dương! Nếu nhà thơ tự vào thành cũng được thưởng như thế...

Về mặt nào đó, kể công nhận vị thủ tướng bù nhìn này biết giá trị cái đầu của nhà thơ Nguyễn Bính! Một nghìn đồng Dông Dương ngày ấy to lắm, là cả một cơ nghiêp.

Nhiều thi sĩ là bạn Nguyễn Bính viết thư “thuyết khách’ mời Bính vào. Nhiều người cũng tưởng Nguyễn Bính vào thành với địch rồi. Vì lúc đó, nhà thi sĩ chúng ta đang lang thang phải ăn nhờ một nhà ông bạn ở Rạch Giá, và tối tối phải chui vào một cái nóp (bao cói) ra ngủ ở ngoài đình cho khỏi muỗi.

Ấy vậy mà hồi đó, trong một bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã viết hai câu thơ khẳng định:

Mình không bỏ Sở sang Tề,

Mình không là kẻ lỗi thề , thì thôi.

Nhiều cụ già trong Nam hồi đó biết chuyện, gọi Nguyễn Bính là có ý chí của sĩ phu yêu nước.

25.Người sửa thơ Nguyễn Bính

Nhiều nhà thơ, nhà văn khi đã nổi tiếng, ai sửa chữa văn thơ mình thì khó chịu lắm, nhất là người phê bình lại chưa có cương vị gì:

Xưa nay thế thái nhân tình

Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay!

Ngược lại, Nguyễn Bính làm thơ xong bài nào cũng đọc lại cho bạn bè, người chung quanh nghe, ai góp ý là nghiền ngẫm sửa lại. Nếu ta xem các bản thảo, gốc thì rất rõ, những câu thơ tác giả sửa đi sửa lại, như các bài: “Sao chẳng về đây” và nhiều bài khác.

Thú vị nhất có một lần, Nguyễn Bính làm bài thơ về vợ con ở Miền Nam, trong đó có câu:

Lao trong lửa đạn bời bời,

Vợ tôi ôm chặt con tôi vào lòng.

Thương con lại nhớ lời chồng,

Lấy thân làm bức thành đồng cho con...

Đến khi in thử, thợ nhà in xếp chữ lầm thành:

Lấy thân làm bức thành đồng che con.

Mọi người đùa là công nhân dám sửa thơ của thi sĩ! Và đề nghị sửa chữa lại nhưng Nguyễn Bính xem bản in thử nói

- Công nhân họ sửa thơ mình hay hơn lên đấy. Che con có hình ảnh và gợi cảm hơn, không cần đính chính đâu.

Mọi người, kể cả anh thợ nhà in rất thích thú và cũng rất phục Nguyễn Bính.

26.Cái bướu nghệ sĩ

Đó là những cái người đời thường cho là lập dị, thậm chí là dở hơi! Nhưng xem ra đã là nghệ sĩ, thường không ai không có cái “ bướu” ấy. Nghệ sĩ càng lớn, cái “Bướu” càng to. Như Ni -Tơn khoét hai lỗ cho hai con mèo dễ ra vào. Tản Đà lật mấy viên gạch hoa nhà bạn lên trồng rau húng...

Một hôm Nguyễn Bính tiếp khách ở nhà mình, có Nguyệt Hồ, Việt Quyên, Phong Giao đến chơi, xem ra chẳng vị nào có một xu dính túi. Nguyễn Bính nghĩ cách tiếp bạn. Biết Nguyệt Hồ nghiện nặng thuốc lá, Nguyễn Bính phân công Việt Quyên đi nhặt các mẩu thuốc lá vứt trong gạt tàn gầm bàn, gầm tủ gom lại. Phong Giao đi đổ bã chè ở các ấm to, các ấm nhỏ ra. Nguyễn Bính nhóm bếp sao bã chè lên. Ông nói:

- Chè sao lại, nước ngon chỉ kém “Chính Thái”. Nhưng còn hơn chè hâm lại, các vị ạ!

Sau đó các mẩu thuốc lá cũng được xé ra, cho lên nồi rang sao. Nguyễn Bính cũng bảo:

- Thuốc lá sao lại đậm ngon hơn chính phẩm, họa sĩ thử mà xem.

Nguyệt Hồ cho cho thuốc vào píp phì phèo rồi đọc đùa mấy câu thơ :

Thuốc lá hay là “xỏ lá” đây!

Yêu cầu ông Bính trả lời ngay?

Hay thương thằng bạn cơn nghiền đến

Chẳng có tiền mua, chửa đủ say...

Trong khi sao tẩm, Nguyễn Bính đã bảo Phong Giao tháo một chiếc bóng điện duy nhất của nhà mình ra chợ bán, mua rượu. Thế là thi sĩ tiếp các bạn cũng đủ chè, thuốc, rượu như ai! Nguyễn Bính tức cảnh:

Khô chè, sao lại chè khô

Ai quăng thuốc xuống, ta mò thuốc lên.

Một khi nghệ sĩ túng tiền,

Làm sao cho thoả cơn nghiền thì thôi.

27.Chị Trúc trong thơ Nguyễn Bính

Theo Bùi Hạnh Cẩn, tác giả NGUYỄN BÍNH VÀ TÔI, đồng thời cũng là anh em con cô con cậu ruột với tác giả LỠ BƯỚC SANG NGANG, thì bà thân của Nguyễn Bính mất rất sớm, khi Nguyễn Bính mới 3 tháng tuổi. Nguyễn Bính rời quê nội làng Trạm sang ở thôn Vân, quê ngoại (cùng thuộc huyện Vụ Bản - Nam Định) và lớn lên ở đó. Bùi Hạnh Cẩn và Nguyễn Bính như vậy vừa là anh em, vừa là bạn học, bạn thơ từ thủa thiếu thời. Do vậy nên những tiết lộ của họ Bùi soi sáng nhiều điều trong thơ họ Nguyễn.

Có lẽ Nguyễn Bính là thi sĩ đầu tiên (đối với tôi) đã trang trọng đưa "người chị" vào thơ. Tập Lỡ Bước Sang Ngang của Nguyễn Bính xuất hiện năm 1938. Gần 60 năm sau tôi mới được nghe bài thơ Chị Tôi của Đoàn Thị Tảo cuối thập kỷ 90 vừa qua. Người tình, người mẹ, người em gái nhỏ ở trong thơ xưa nay không thiếu. Riêng một người chị, ngay từ những bài thơ đầu tiên và sau này suốt cuộc đời thơ, Nguyễn Bính đã giới thiệu "Chị Trúc" một cách thiết tha, đằm thắm. Trong 3 bài Lỡ Bước Sang Ngang đăng lần đầu tiên trên TIỂU THUYẾT THỨ NĂM năm 1938 đều có ghi "Tặng chị Trúc". Sau này nhiều bài thơ khác, khi đi lưu lạc giang hồ, đặc biệt những bài "Trăm câu một vần", "Xuân tha hương" và "Xuân vẫn tha hương", tác giả đều gửi tâm sự về quê nhà, kể lể nỗi niềm cùng chị Trúc:

Tết này chưa chắc em về được

Em gửi về đây một tấm lòng

Ôi chị một em, em một chị

Giời làm xa cách mấy con sông ...

Tết này chưa chắc em về được

Em gửi về đây một tấm lòng

Tết này, ô thế mà vui chán

Những một mình em uống rượu hồng.

Rượu say nhớ chị hồi con gái

Thương chị từ khi chị lấy chồng...

Trong “Xuân vẫn tha hương”, tác giả nằm đón giao thừa ở Huế, "suông cả ân tình rượu cũng suông", đốt ngọn đèn lên nhìn cái bóng cô đơn của mình in trên vách mà thở than cùng chị:

Đêm ba mươi Tết quê người cũng

Tiếng pháo giao thừa dậy tứ phương

Chị ạ, em không người nước Sở

Nhớ nhà đâu mượn tích Trương Lương

Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ

Ôi nhà, ôi chị… ôi quê hương.

Trong nhiều bài thơ khác, hình ảnh chị Trúc cứ thấp thoáng xa gần. Chị Trúc đối với Nguyễn Bính là chiếc khăn hồng chị cho để thấm những giọt lệ đời:

Chị cho em chị chiếc khăn thêu

Ý chị thương em khóc đã nhiều

Khóc chị ngày xưa, giờ lại khóc

Cho mình khi tắt một tình yêu.

Chị Trúc là một quê hương để nhớ về - là một đối tượng hết sức thân thương trìu mến để tác giả sẻ chia mọi nỗi cô đơn cũng như những phút giây hạnh phúc:

Chiều chiều hai đứa sang thăm chị

Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu...

Đọc thơ Jacques Prévers người ta nhớ Barbara - đọc thơ Argon người ta quen với Alsa, đọc Kiều người ta mong gặp Kim Trọng - đọc Lục Vân Tiên người ta nghĩ đến Nguyệt Nga... Đọc thơ Nguyễn Bính ai cũng muốn biết chị Trúc là ai mà người thơ gửi gấm nhiều tâm sự? Nguyễn Bính đã mất trên 30 năm rồi. Người thơ đã nằm im dưới mộ - Nguyễn Bính có một cái hơn người là càng ngày người ta càng đọc, càng ngâm thơ ông. Do vậy nên cái mong mỏi tìm hiểu về chị Trúc càng ngày càng thêm nôn nả.

Như để trả lời vấn nạn của chúng ta, người anh em của Nguyễn Bính, cũng là người bạn học, bạn thơ thủa thiếu thời, Bùi Hạnh Cẩn đã dành một chương trong cuốn "Nguyễn Bính và Tôi" để nói đến chuyện này: "Những bài thơ về chị Trúc".

Bùi Hạnh Cẩn kể rằng Nguyễn Bính sau khi mất mẹ từ rất nhỏ, ông thân của nhà thơ là Nguyễn Đạo Bình tục huyền - cùng cha cùng mẹ với Nguyễn Bính (tên tục là Nguyễn Trọng Bính) chỉ có 2 người anh trai: Nguyễn Mạnh Phác và Nguyễn Ngọc Thu - Nhà thơ không có người chị ruột nào. Vậy chị Trúc là ai?

Người phụ nữ ấy (chị Trúc của nhà thơ) thật ra không có liên hệ họ hàng ruột thịt gì với nhà thơ hết. Theo Bùi Hạnh Cẩn, đó là một phụ nữ họ Lê tên là N.TH. (họ Bùi không hài rõ tên, chỉ ghi như vậy) người đẹp, da trắng, môi hồng, mũi dọc dừa, đôi mắt trong như nước hồ thu. Đặc biệt người phụ nữ này đã có chồng ở thị xã Hà Đông. Ở nơi này có anh ruột của Nguyễn Bính là Nguyễn Mạnh Phác vừa dạy học vừa làm văn nghệ viết kịch, viết báo, làm thơ. Ở tỉnh nhỏ, như thế đã là có giá. Sau này khi Nguyễn Bính nổi danh với Lỡ Bước Sang Ngang thì ông anh Mạnh Phác lại càng được mọi người nể trọng, và đương nhiên chị Trúc người được nhà thơ đề tặng cũng nổi tiếng theo. Thật ra lúc ấy "chị Trúc" chỉ là người em văn nghệ của Nguyễn Mạnh Phác. Một buổi nhà thơ Lê Văn Trương về Hà Đông thăm thú bạn bè - Mạnh Phác, được mời viết cho báo Ích Hữu do Lê Văn Trương phụ trách. Cần phải có một bút hiệu mới cho Mạnh Phác. Ngày xưa, theo lời ông cậu ruột của anh em họ Nguyễn, tức là thân sinh của Bùi Hạnh Cẩn, thì bà thân của họ Nguyễn "đẻ rơi" Mạnh Phác ngoài lộ. Do vậy nên ngoài tên khai sinh Mạnh Phác còn có tên riêng ở nhà là "cu Đường". Bây giờ cần có một bút hiệu, mọi người mới ghép tên "người em văn nghệ" Trúc với tên riêng Đường thành bút hiệu Trúc Đường. Trúc Đường sau đó trở thành nhà viết kịch có tiếng ở miền Bắc.

Dạo đầu thập kỷ 40, trong không khí ngột ngạt của đệ nhị thế chiến sắp tràn tới Đông Dương, các văn nghệ sĩ có phong trào "đi", hay là "giang hồ vặt", theo khẩu hiệu do Nguyễn Tuân đề xướng "Ta muốn sau khi ta chết, có người thuộc da ta làm chiếc valise". (NT cũng mượn câu nói này của một nhà văn Pháp, tôi không nhớ được tên). Nhưng đi để mà không biết đi đâu?"

Ta đi nhưng biết về đâu nhỉ?

Đã dấy phong trào khắp bốn trời.

Mấy ông nhà văn, nhà thơ trẻ Nguyễn Bính, Tô Hoài, Trọng Can từ Bắc vào miền Trung, vô Nam rồi lại trở ra. Hãy nghe Tô Hoài kể lại trong hồi ký: "Chúng tôi ghé xuống Thanh Hóa trước tiên. Chúng tôi lại xuống Huế. Vào Huế, lại sống vật vờ như ở Thanh Hóa. Thỉnh thoảng Nguyễn Bính gửi thơ về đăng báo, nhờ Trúc Đường gửi tiền nhuận bút vào trọ. Nhưng thơ làm sao nuôi nổi người, huống chi lại những 3 người. Cũng đến ngày phải đi... chỉ có một mình Nguyễn Bính ở lại Huế".

Đây là thời kỳ Mạnh Phác và chị Trúc gửi thư và tiền vào cho Nguyễn Bính ở Huế. Đó cũng là thời kỳ Nguyễn Bính viết Xuân Tha HươngXuân vẫn tha hương.

Tết này chưa chắc em về được

Em gửi về đây một tấm lòng

Một chị một em, em một chị

Giời làm chia cách mấy con sông...

Chị Trúc, người Nguyễn Bính đề tặng thơ rất trang trọng, người Nguyễn Bính thiết tha sẻ chia tâm sự, thật sự ra chỉ là một "người em văn nghệ" của anh mình: Trúc Đường Nguyễn Mạnh Phác.

Đó chỉ là một hình bóng phụ nữ thoáng qua trong đời Nguyễn Bính. Nhưng nhà thơ trân trọng tôn thờ hình bóng đó, vì Nguyễn Bính mồ côi mẹ từ thủa nhỏ, đã thiếu tình mẫu tử, lại không có chị, có em nào gần gũi. Chị Trúc thật ra rất xa mà lại rất gần đối với Nguyễn Bính. Đó cũng là ảo giác của người gần chết khát trong sa mạc, tưởng rằng mình sắp đến được một ốc đảo đầy suối trong và bóng mát...